BÀI THƠ KHÔNG TỰA
(TRAO ĐỔI: PHẠM ĐỨC NHÌ & NGUYỄN BÀNG)
Bài Thơ Không Tựa
Hộp thư đến
|
x
|
|
19:00, 27 thg 12, 2015
|
|||
|
Bài
thơ viết cuối năm 1996, có tựa đàng hoàng, nhưng vì lúc ấy mới tập tành
computer nên khi copy rồi paste vào mail, cái tựa không hiểu sao biến mất.
Mấy
người bạn FW bài thơ đi khắp nơi và được mọi người ưa thích. Nhận thấy khi đọc
đến cuối bài ai cũng có thể đặt tựa cho bài thơ rất chính xác nên hôm nay, kỷ
niệm bài thơ được 19 tuổi, xin gởi bài thơ (cũng vẫn không có tựa) đến bạn
đọc để cùng sống lại một giai đoạn lịch sử "không thể nào quên" của
dân tộc.
Phạm
Đức Nhì
BÀI THƠ KHÔNG
TỰA
Tự do như muối
hạnh phúc như đường
khi còn đang
ăn đủ miếng ngọt miếng ngon
khó thấy được giá trị
của hạt đường hạt muối
Tôi
sống ở miền nam
nhìn
dòng đời trôi nổi
nở
lại tàn
bao
nhiêu mùa hoa
hai
nền Cộng Hòa
một
cuộc chiến tranh dài đẫm máu
Tôi
đã dốc lòng chiến đấu
bảo
vệ tự do
dưới
lá cờ
nền
vàng ba sọc đỏ
Tiếc
thay trong đội ngũ
chúng
tôi có hơi ít những Ngô Quang Trưởng , Nguyễn Khoa Nam
mà
lại khá nhiều Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Văn Toàn
nên
lính mất niềm tin
dân
chán nản
những
kẻ có lòng
lắc
đầu ngao ngán
Rồi
nước Mỹ đồng minh
xưa
là bạn
nay
trở mặt lọc lừa
quên
lời hứa năm xưa
bỏ
mặc “tiền đồn của thế giới tự do”
thất thủ
Kẻ
thù đưa tôi lưu đày biệt xứ
rồi
khua chiêng gióng trống ăn mừng
Đám
trí thức, sinh viên, học sinh
xưa
trốn vô bưng
mơ
một thiên đường trên trái đất
nay
ngồi trên khán đài nghếch mặt
“Thiên
đường đang ở trong tầm tay”
Má
Hai
xưa
đào hầm nuôi cán bộ
nay
hớn hở
“Tụi
nó dzià mình chắc có tương lai”
Bà
Tám
con
chết trận Đồng Xoài
hí
hửng lãnh bằng
Gia
Đình Liệt Sĩ
Những
nhà soạn nhạc, nhà văn, nhà thơ,
xưa
chống “cuộc chiến tranh phi lý”
(đâm
sau lưng người lính Cộng Hòa)
nay
chìa bút ra
xin viết
bài ngợi ca chế độ mới
Đám
thanh niên
xưa
trốn chui trốn nhủi
ở hậu
phương
xanh
mặt
khi
nghe nhắc tới chiến trường
nay
tự nhận
đã
yêu thầm cách mạng
Những
người dân bình thường
xưa
gặp lính
khi
ghét khi thương
lúc
buồn ngồi chửi đổng
“Tao
chửi cả thằng Tổng Thống
xá gì
lính tráng tụi bay”
nay
cũng ngập ngừng vỗ tay
nhưng
mắt nhìn quanh lấm lét
họ
chưa có câu trả lời dứt khoát
muốn
đợi một thời gian
Sau
vài năm
cuộc
hôn nhân qua tuần trăng mật
đã
đầy nước mắt
và
những tiếng nấc nghẹn ngào
Đám trí
thức vô bưng năm nào
tức
giận thấy mình bị bội phản
buông
lời phản kháng
kẻ vô
khám Chí Hòa
người
bị quản thúc tại gia
đuổi
gà cho vợ
thiên
đường ước mơ sụp đổ
Má
Hai
đã
quen dần với bo bo, với sắn với khoai
như
người dân miền bắc
những
cán bộ
xưa
má nuôi trong hầm bí mật
đã ra
lệnh bắt má mấy lần
má
làm không đủ ăn
lấy
lúa đâu đóng thuế
Bà
Tám
ôm
tấm bằng Gia Đình Liệt Sĩ
bụng
đói meo
làng
trên xóm dưới ai cũng nghèo
tình
người hiếm hơn hồi đó
bà ra
mộ con ngồi nhổ cỏ
khóc
thầm
Những
văn nhân
một thời
phản chiến
biện
minh “ngộ biến tòng quyền”
cố o
ép trái tim
“cho
giống môn đồ của Lê-Nin, Kác-Mác”
Nhưng
với văn thơ, với nhạc
quen
phóng túng tự do
sao
chịu nổi gông xiềng
lại
tiếc những ngày
trời
rộng thênh thang
múa
bút
Đám
thanh niên hèn, khoác lác
tưởng
được chế độ mới tin dùng
bị đi
lao động quốc phòng
thanh
niên xung phong
làm
việc không công
nơi
rừng sâu nước độc
cháy
da vàng mắt
đói
lòng
Những
người dân
xưa
chửi vung chửi vít
nay
im thin thít
chẳng
dám hé môi
một
số kẻ lỡ lời
bị đi
“ tù không án “
Khi
cán bộ xưng tụng bác Hồ
ca
ngợi Đảng
họ
cao giọng hoan hô
vỗ
tay thật to
nhưng
bụng thầm ao ước
được
sống lại những ngày xưa cũ
Sau
ba mươi tháng tư
đớn
đau tủi hổ
là
gia đình người lính Cộng Hòa
kể bị
cướp nhà
người
bị cướp đất
con bị
đuổi học
vợ
mất sở làm
chồng
đi tù biệt tăm
đi
họp
cán
bộ mỉa mai nhiếc móc
ra
đường
bị
lườm dọc nguýt ngang
Đến
khi ruộng vô tập đoàn
gạo
vải sữa đường
bán
theo tiêu chuẩn
nhà
máy công ty hãng xưởng
trở
thành quốc doanh
công
an khu vực
đầy
quyền hành
thực
thi chính sách nhân hộ khẩu
người
dân chịu đời không thấu
mà
chẳng dám than vãn kêu ca
Bấy
giờ gia đình người lính Cộng Hòa
mới
nhận được những tia nhìn thiện cảm
nghĩ
đến con, đến chồng, đến cha
trong
nhà tù cộng sản
họ
hãnh diện ngẩng đầu
Hôm nay
giữa trời cao
được
thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ
phất
phới bay trong gió
tôi
muốn khóc thật to
tôi
muốn hét lên
“Đây
hạnh phúc ! Đây tự do!”
mà
thuở nào
tôi
đã buông tay đánh mất
để
phải chôn tháng năm tươi đẹp nhất
của
cuộc đời
trong
các trại tù
rải
rác khắp nơi
trên
đất nước
Họ
hàng tôi, đồng bào tôi
những
ai không đi được
mấy
chục năm trường
gánh
chịu đau thương
uất
hận tủi hờn
nhìn
quê hương tan nát
Mẹ
Việt Nam ơi ! Những đứa con lưu lạc
đã
nhận rõ lỗi lầm
đang
đấu tranh âm thầm
cho
một ngày quang phục
Sẽ
còn nhiều khó nhọc
để
dành lại giang san
từ
tay bọn cộng sản tham tàn
nhưng
kìa ! Phất phới bay trong gió
vẫn
như ngày nào
lá cờ
vàng ba sọc đỏ
mà
sao hôm nay
chính
nghĩa sáng ngời
chẳng
cần một lời
luận
bàn lý giải
Tôi
đứng lặng nhìn, lòng khoan khoái
lá cờ
vẫn còn đây
thì
quê hương ơi ! Sẽ có một ngày!
Viết
tại San Leon sau khi dự lễ dựng kỳ đài tại Houston 1996
Phạm
Đức Nhì
15:33, 28 thg 12, 2015
|
||||
|
1/ Một là, Bài thơ không
tựa do cố tình chơi theo kiểu “vô đề” như ông tổ thơ vô đề Lý Thương Ẩn bên Tàu
hay các nhà thơ bên Ta học đòi sau này như Nguyễn Bính, Lê Đạt, Phạm Công Trứ
và đặc biệt Nguyễn Chí Thiện với cả tập thơ Vô đề và cái nghi án được tạo dựng?
Hai là, Bài thơ không tựa, vốn có tựa đàng hoàng nhưng do còn dốt về computer
nên khi cop paste cái tựa bị biến mất? Dù là lý do nào thì quả thực bài thơ này
của Phạm Đức Nhì cũng không dễ đặt cho nó một tựa đề. Nhưng nếu cắt bài thơ
thành nhiều bài nhỏ (Mà có thể cắt được) thì mỗi bài nhỏ có một tựa đề rất rõ
ràng. Ví dụ: Đội ngũ chúng tôi, Đám trí thức xưa, Má Hai Bà Tám, Sau 30 tháng
tư…;
Đại để là vậy nhưng không
có nghĩa là để nguyên cả bài thơ trên cả trăm câu với gần 1000 chữ thì không
thể đặt tựa đề cho nó như chính tác giả đã nói khi mào đầu là nó Có tựa đàng hoàng và
nói vớt sau lời mào đó: Nhận thấy khi đọc đến cuối
bài ai cũng có thể đặt tựa cho bài thơ rất chính xác!
Thơ quý ở ý tứ sâu sắc và
chảy dài như một dòng nước không ngừng nghỉ. Bài thơ không tựa này phần nào đã
đạt được cái quý đó. Hình ảnh đất nước, quê hương, con người ở nhiều bình diện
cứ lật đi lật lại, dù ở chiến tuyến nào, xưa ra sao nay ra sao, tất cả đều toát
lên đau thương, uất hận, tủi hờn để rồi tất cả mơ về SẼ CÓ MỘT NGÀY!
19 năm trước, nhà thơ đang
tuổi nhi bất hoặc, hiểu được mọi sự lý trên đời rất sâu sắc, nhưng không phải
ai ở cái tuổi 40 cũng có được một bài thơ không tựa như này.
2/ Bài thơ có đoạn:
Má Hai
xưa đào hầm nuôi cán bộ
nay hớn hở
“Tụi nó dzià mình chắc có tương
lai”
Khiến tôi nhớ ra bài thơ
một thời nổi như cồn của Dương Hương Ly (tức Bùi Minh Quốc): Đất Quê Ta Mênh
Mông, với đoạn:
Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn
xanh
Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc
Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại
bác
Bao đêm rồi tiếng cuốc vọng
năm canh.
Như đã chuyện với bác, Bùi
Minh Quốc là cây bút chủ lực của nhóm Tư Duy thời học Chu Văn An. Khoảng 18
tuổi, Quốc đã có bài thơ “Thật Kỳ Diệu Khi Mười Tám Tuổi” với hai câu:
Thật
kỳ diệu khi mười tám tuổi
Cháu Bác Hồ, đồng chí của Lê-nin…
Cháu Bác Hồ, đồng chí của Lê-nin…
Đúng là môn đồ của Lê Nin,
Kác Mác!
Cũng năm 18 tuổi, đang học
lớp 10, không hiểu Quốc có đi miền Tây hay không, và nếu đi thì thấy miền Tây
ra sao nhưng Quốc có hẳn một bài thơ dài “Lên Miền Tây” hệt như giọng điệu Tố
Hữu “Đi ta đi! Khai phá rừng hoang/ Hỏi núi non
cao, đâu sắt đâu vàng?” hừng hực khí thế cách mạng những năm
cân sáu mươi của thế kỷ trước:
Tuổi hai mươi, khi hướng
đời đã thấy
Thì xa xôi biết mấy cũng
lên đường
Sống ở thủ đô mà dạ để mười
phương
Nghìn khát vọng chất chồng
mơ ước lớn
Bài thơ nhanh chóng được
đưa vào Văn tuyển lớp 7 khiến bao trai gái thời đó vì bài thơ này đã xung phong
lên miền Tây để “Viết
tiếp những trang thần thoại mới”cho
đất nước sau Điện Biên Phủ!
Năm ngoái, 2014, Bùi Minh
Quốc có chép lại bài thơ này cho một trang mạng nhưng không hiểu sao lại bỏ đi
hai câu:
Ta băng mình trong sức mạnh nhân dân
Đi dựng những Điện Biên của hòa bình và thắng
lợi......
Nhưng
lại thêm ra câu :
Dù
muỗi rừng vắt núi, dù thiếu từng hạt muối cọng dưa
Sau khi học đại học, năm
1963 Bùi Minh quốc không lên miền Tây mà về làm công tác cho đài phát thanh
Tiếng Nói Việt Nam, đến năm 1967 thì xung phong vào chiến trường miền Nam…
Sau 1975, Bùi Minh Quốc đã
có lúc ngồi vào cái ghế Chủ tịch hội Văn Nghệ Lâm Đồng – Đà Lạt.
Nhưng chính Quốc đã nhận
ra:
Cái guồng máy nhục mạ con
người
Mang bộ mặt hiền lành của
người cuốc đất...
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng
cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ
máy này
Năm
1988, Quốc cùng Tiêu Dao Bảo Cự ra Hà Nội, nhằm vận động trí thức văn nghệ sĩ
đấu tranh đòi tự do dân chủ. Sau vụ này cả hai đều bị khai trừ khỏi đảng rồi
cùng Hà Sĩ Phu bị quản chế tại gia…
Thơ
Bùi Minh Quốc có một số bài hay; cuộc đời Bùi Minh Quốc có nhiều mất mát hy
sinh rất đáng thương trọng. Nhưng khác với Nguyễn Khải, Quốc chỉ nhận ra CÁI
TÔI ĐÃ MẤT khi không còn địa vị và quyền lợi. Nguyễn Khải thì khác, chẳng ai
động tới ông. Nếu ông cứ im lặng về cát bụi thì chắc chắn giờ này đã có một con
đường mang tên ông. Nhưng với ông:
“Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy,
về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa
đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.”
Tài
sản tinh thần thâu góp một đời đã như thế thì ngậm miệng chết để có được một
con phố mang tên mình với chế độ này, phỏng có ích gì.
Tôi
trọng Nguyễn Khải hơn Bùi Minh Quốc và hơn nhiều văn nghệ sĩ khác như Nguyễn
Đình Thi, Chế Lan Viên, Bùi Tín…ở chỗ ấy!
Và
xin trao đổi riêng với bác Nhì như thế.
|
21:03, 28 thg 12, 2015
|
|||
|
Tôi
có gặp Bùi Minh Quốc một lần ở Houston. Ông sang dự lễ tốt nghiệp đại học của
con (không biết trai hay gái). Đám văn nghệ sĩ rủ tôi đến nghe đọc thơ và đọc
thơ đáp lễ (bởi tôi cũng thuộc thơ và đọc thơ "rất có duyên" mà không
cần văn bản). Hôm ấy chủ nhà là Phan Xuân Sinh đãi mấy món ăn nhanh, sau đó kẻ
đứng người ngồi quanh cái bàn dài. BMQ ngồi chễm chệ ở giữa. Tôi ngồi
sát bên trái ông để tiện bề thù tạc. BMQ đọc khoảng 7, 8 bài thơ ngắn bày
tỏ chí khí của nhà thơ trước áp bức của cường quyền. Tôi đọc thơ đáp lễ (cũng
6, 7 bài dài hơn) trong đó có bài Bệnh Nan Y - nói về chứng Teo Hòn Dái của các
hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam.
Nói
chung, buổi gặp mặt khá vui vẻ. Phong thái của nhà thơ BMQ chững chạc, được
khán thính giả (khoảng 20 người) mến phục.
Mấy
hôm nay được bác Bàng cho biết thêm về BMQ tôi càng phục ông ta. Phục cái tài
đóng kịch.
Cám
ơn bác Bàng về những "lời bình" cho bài thơ Lá Cờ Chính Nghĩa.
Phạm
Đức Nhì
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét