Thứ Năm, 28 tháng 12, 2017

 ngườilàngcốm
14.01.2010 @ 18:47

TẢN MẠN VỀ HAI TIẾNG “ĐI TÂY”



Hai tiếng “Đi Tây” có từ bao giờ? Có bạn nói, có lẽ Hoàng tử Cảnh là người đầu tiên “Đi Tây”. Nếu đúng thế thì hai tiếng này có từ 1783, vì mùa hạ năm đó Nguyễn Phúc Ánh nhờ Giám mục Bá Đa Lộc, tục gọi là Cha Cả sang Pháp cầu viện, Hoàng tử Cảnh (khi đó mới 3 tuổi) theo làm con tin. Nhưng mọi sử sách không nói chuyện này là “đi Tây” mà nói là sang Pháp.
Bắt đầu từ thế kỉ XVI-XVII, những nhà truyền giáo mang theo đồ trang sức, pha lê, vũ
khí … đổi lấy hàng đặc sản như trầm hương, đá quí, yến sào, ngà voi, sừng tê, đồi mồi và các gia vị quí (hạt tiêu) … tạo ra”con đường hồ tiêu”(từ Địa Trung Hải đến Đông Nam Á). Từ những thập niên đầu thế kỷ 16 đức tin Công giáo đã được truyền bá bí mật tại Việt Nam. Đầu tiên, linh mục Ignatio lén vào giảng đạo ở vùng Nam Định. Sau đó các giáo sĩ Bồ và Tây Ban Nha kế tiếp, đi dọc các tỉnh ven biển miền Trung.Đến năm 1578, các tu sĩ Dòng Franciscan đến Việt Nam và đến năm 1615 các tu sĩ Dòng Tên (Jesuit) được cử đến để giảng đạo tại cả Đàng Ngoài và Đàng Trong. Rồi nhà truyền giáo và nhà tư bản liên kết với nhau vươn cánh tay tới phương Đông, truyền đạo và tìm hiểu thị trường, buôn bán. Chúa Trịnh, vua Lê, chúa Nguyễn đều sẵn lòng giúp đỡ họ để tranh thủ lực lượng trợ giúp mình củng cố quyền lực.
Thời kỳ ấy, dân ta gọi các nước Bồ và Tây Ban Nha là các nước phương Tây, gọi những nhà truyền giáo là các giáo sĩ phương Tây và các thương nhân là người phương Tây hoặc các nước Tây Dương hay người Tây Dương. Sau này người Bồ và Tây Ban Nha nhường chân cho người Pháp, ta gọi nước Pháp là nước Phú Lãng sa, người Pháp là dân Phú Lãng sa.
Khi Pháp xâm lược nước ta, các nhà nho gọi bọn Pháp xâm lược là là bạch quỉ, bạch man; nhưng dân chúng thì gọi nôm gọn hơn là “quân Tây”. Bài thơ dùng chữ “Tây” đầu tiên có lẽ là bài “Chạy giặc” của cụ Đồ Chiểu:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Và sau này hàng loạt thơ văn khác:
“Quân Tây nó nhiều bề ác độc
Người ta càng lắm lúc nguy nan”
Pháp đàn ông gọi là “thằng tây”, đàn bà gọi là “con đầm”; đàn bà Việt có chồng Pháp gọi là me Tây, con của hai dòng máu Pháp việt gọi là Tây lai, đầm lai. Mọi thứ của người Pháp đều gọi là đồ tây: nhà tây, súng tây, bánh tây, ô tây, thậm chí cái bao cao su tây dùng chơi gái cũng gọi là b…tây.
Tuy vậy, việc người Việt đi Pháp chưa thấy gọi là “đi tây” mà gọi là sang Pháp. Ví dụ:
Năm 30 tuổi (1858), Nguyễn Trường Tộ được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng, Singapore, Thuỵ Sĩ. Trên đường đi ông có ghé Roma yết kiến Giáo hoàng rồi cuối cùng sang Pháp theo học trong gần 2 năm.
Chữ Tây lần đầu xuất hiện với ý nghĩa “đi tây” trên báo chí trong hai tiếng “Như Tây” trong “ Như Tây hành trình” của Trương Minh Ký vào năm 1888. Trương Minh Ký là học trò của Trương Vĩnh Ký. Ông thông Hán và giỏi Pháp văn, làm thông ngôn cho nhà cầm quyền Pháp, cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Định báo, Thông Loại Khóa Trình cũng như viết sách dạy Pháp văn. “ Như Tây nhựt trình” là một cuốn du ký bắng thơ gồm 2000 câu song thất lục bát, được đăng ở Gia Định báo, kể về hành trình qua Châu Âu và Bắc Phi của Trương Minh Ký khi ông dẫn đoàn du học người Việt sang Anger du học năm 1880 với những ấn tượng sâu sắc về phong tục, nếp sống xa lạ của người dân bản xứ.
Đến tận năm 1922, Phạm Quỳnh ghi lại những điều mình trải qua trong chuyến đi dài 6 tháng sang Pháp dự hội chợ đấu xảo Marseille năm 1922. Ông vừa viết (từ Pháp), vừa gửi về Việt Nam đăng liên tục 42 kỳ trên tờ Nam Phong, giống như cách một đặc phái viên thông tấn ngày nay tác nghiệp và tường thuật từ nước ngoài. Tác phẩm này vẫn gọi tên là “Pháp du hành trình nhật ký”.
Xem vậy, hai tiếng “đi Tây” vẫn còn xa lạ.
Có lẽ Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên đã đưa hai tiếng “Đi Tây” vào tác phẩm văn học. Ấy là khi ông cho in truyện ngắn “Thế là mợ nó đi Tây” trên An Nam tạp chí số 43; 1932. “Đi Tây” với cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Từ đó, hai tiếng “Đi Tây” bắt đầu được dùng nhiều trên báo chí và phổ biến trong lời nói hàng ngày của dân ta.
Vì vậy, năm 1935, Nhất Linh cho ra cả một tác phẩm với nhan đề “Đi Tây” ghi lại những điều mắt thấy tai nghe của ông trong chuyến du học Pháp từ năm 1927 đến 1930.
Trong cuộc Âu chiến, Thực dân Pháp bắt một số trai tráng người Việt sang Pháp đánh nhau để bảo vệ nước mẹ. Việc đi lính ấy cũng gọi là “Đi Tây”. Tố Hữu viết bài thơ “Đi Tây” có khổ thơ:
“Đi Tây, đi lính, là đi… chết!
Ai biết rồi đây, cuối xóm xa,
Ly biệt hôm nay thành vĩnh biệt
Đôi hàng sùi sụt, gọi chồng… ma! “
*
Những chuyện “Đi Tây” Nguyễn Quang Lập kể là chuyện “Đi Tây” hiện đại, không còn nghĩa hẹp là sang Pháp. Không chỉ nước pháp là nước Tây, người Pháp là người Tây mà từ Nga, Đức, Hung, Tiệp…đều là Tây hết. Ông Lê Lựu sang Mỹ cũng là “Đi Tây”. Đi Tây đồng nghĩa với đi buôn, đi hái lộc trời, đi chơi, đi hội thảo, đi để đùa nước Tây tí cho vui, đi vì khát danh đến tâm thần!, đi để về bốc phét…
Hàng loạt cô gái lấy chồng ngoại kể từ Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Úc…đến Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật bản…tuốt tuột đều là lấy chồng Tây hết. Cũng là đi Tây để đổi đời!
Nhưng sang Trung Quốc, lấy chồng Trung Quốc không ai gọi là đi Tây, lấy Tây cả mà vẫn gọi là sang Tàu, lấy Tàu. Thế mới biết cái uy của nước lớn!
*
Kẻ còm này một đời không có số Đi Tây. Ngay cái nước Tàu sát mắt cũng không có tiền đi chơi một chuyến. Ngậm ngùi mà ngâm rằng:
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta…SANG TÀU!

Rate This
NGUYỄN QUANG LẬP
14.01.2010 @ 19:07
ua chầu, bài viết cực công phu về lịch sử đi tây hi hi, cảm ơn bác

Rate This
hoangdung
14.01.2010 @ 22:14
To nguoilangcom & Lạc Dân
Trích
“Hai tiếng “Đi Tây” có từ bao giờ? Có bạn nói, có lẽ Hoàng tử Cảnh là người đầu tiên “Đi Tây”.
Cám ơn Bác đã cho biết nhiều tài liệu về 2 chữ “đi Tây”.Trong chiều hướng suy tầm 2 chữ này,có thể khoanh vùng trong:người đi Tây,công việc đi,và tài liệu để lại hậu thế qua lịch sử.Lịch sử ngoại giao và văn học sử đều có ghi lại,nhưng có lẽ chữ “đi Tây”này được hình thành và thông dụng sau bài thơ tứ tuyệt của Phạm Phú Thứ :
Từ ngày đi sứ tới Tây kinh
Thấy việc Âu châu phải giựt mình
Thức tỉnh đồng bào mau kịp bước.
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin.
Phạm Phú Thứ (1820 – 1883) năm 1863,đi sứ cùng phái bộ,gồm 60 người,đi tàu thủy mượn của Pháp,do Phan Thanh Giản làm trưởng đoàn qua Pháp năm 1863 ,nhằm chuộc lại 3 tỉnh miền đông Nam kỳ.
Ông có 2 tác phẩm viết về “đi Tây”là:
Tây hành nhật ký
Tây phù thi thảo.
Cùng nhiều sách khác do kiến thức về văn minh phương Tây,thu nhận được từ chuyến “đi Tây”này
Đọc thêm tiểu sử Phạm Phú Thứ tại link:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Ph%C3%BA_Th%E1%BB%A9http://diendan.songhuong.com.vn/showthread.php?t=5694
Xin lưu ý thêm là :
1.-Cái ý tưởng “Thức tỉnh đồng bào mau kịp bước”có giá trị lịch sử rất cao.
2.-hiện nay,các tài liệu trên internet và sách vở,đều ghi nhầm tác giả bài thơ tứ tuyệt này là của Phan Thanh Giản (1796-1867);thậm chí là Bùi Viện (1839 – 1878 nữa.

Rate This
ngườilàngcốm
15.01.2010 @ 09:40
Cảm ơn Hoàng Dung đã chỉnh lý và bổ sung một đôi điều trong còm của NLC, nhắc NLC tìm hiểu thêm về Phạm Phú Thứ và tập tài liệu “Tây hành nhật ký”, dưới danh nghĩa là nhật ký của chung sứ bộ Phan Thanh Giản, nhưng trên thực tế do chính Tả Tham tri Lại bộ, Phó sứ Phạm Phú Thứ soạn thảo.
Tiện đây cũng xin chuyển tới bọ Lập một câu:
Đọc Tây hành nhật ký, sẽ thấy cách nay hơn 140 năm, nước Pháp đã có lệnh cấm hút thuốc trong rạp hát: “…trong nhà hát thì có lệnh cấm không hút thuốc lá….(Người phương Tây rất trọng phụ nữ, mà tính phụ nữ không thích hút thuốc, ngay khi ở nhà, người chồng nghiện thuốc mỗi khi muốn hút cũng phải tránh sang phòng bên, còn lúc ở trong phòng hát, hay ở trên xe, và lúc giắt (sic) tay dạo phố, cũng đều không giám (sic) hút cả…”! 

Rate This
Zhivago
15.01.2010 @ 09:14
“Nhưng sang Trung Quốc, lấy chồng Trung Quốc không ai gọi là đi Tây, lấy Tây cả mà vẫn gọi là sang Tàu, lấy Tàu. Thế mới biết cái uy của nước lớn!”
theo em không hẳn vậy bác ạ, vì việc “đi Tàu” nó có từ xửa xưa rồi, trước việc đi Tây nhiều lắm, chứ không hẳn vì tàu lớn. Hồi xưa đi Tàu thì gọi là đi Tàu, đến lúc tiếp xúc với Tây thì gọi là đi… Tây, thế thôi!

Rate This
ngườilàngcốm
15.01.2010 @ 10:56
Cảm ơn Zhivago đã trao đổi mấy ý rất hay. Xin bạn đọc lời NLC đã trao đổi với bạn Nhật Lệ. Còn NLC nói “Nhưng sang Trung Quốc, lấy chồng Trung Quốc không ai gọi là đi Tây, lấy Tây cả mà vẫn gọi là sang Tàu, lấy Tàu. Thế mới biết cái uy của nước lớn!”, đúng là không hẳn vì Tàu lớn. NLC cũng chỉ là vuốt gió “ râu hùm” tý thôi!
Bởi: ngườilàngcốm ngày 30.11.2009 
lúc 12:23 chiều

Thứ Ba, 26 tháng 12, 2017



HÀ NỘI TRONG TÔI



Mười tám tuổi bạn đến Hà Nội. Mười tám tuổi tôi phải đi khỏi Hà Nội. Kể từ bấy đến nay, bạn loanh quanh đi về và sống cùng Hà Nội. Kể từ bấy đến nay, tôi lang bạt hết khu Việt Bắc đến khu tự trị Thái Mèo rồi về miền biển.

Khi bạn ngồi với người yêu dưới những hàng cây hoa sữa hồ Thiền Quang thì ở nơi tha hương, tôi nhớ về cái hồ đó, nơi tôi và bè bạn thưở hoa niên đã bơi lội những chiều hè…

Đã nhiều năm bạn “thấy Hà Nội quá gần gũi với quê nhà”, “ đi trong lòng Hà Nội lòng thư thái như đi trong vườn nhà mình..”. Đã nhiều năm tôi sợ phải về Hà Nội, sợ gặp lại những mái trường xưa, những người bạn cũ, sợ gặp lại câu ca dao “Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay”

Chiều nay bạn buồn, “ ngồi nhìn qua cửa sổ ngóng xuống hồ Linh Đàm, thốt nhiên câu nói Trần Dần văng vẳng bên tai, rưng rưng muốn khóc, lẳng lặng ngồi vào bàn viết. Viết xong trời đã tối mịt, bèn in ra rồi cầm bài viết này lết lên gác thượng tầng 15 khu nhà tôi ở, thả những tâm tư này xuống lòng đất như thả vào lòng Hà Nội của riêng” bạn.

Chiều nay, bỗng dưng nhặt được những tâm tư của bạn thả xuống lòng đất, tôi cũng buồn rưng rưng muốn khóc, lẳng lặng bấm vào đĩa nhạc nghe lại câu hát: “Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám”, nhớ về Hà Nội của riêng tôi một thời. Trong tôi cũng dâng lên một nổi gì không nói được.

Cảm ơn bạn đã cho tôi một nỗi buồn thật đẹp chiều nay!

danchoa
28.01.2010 @ 20:18
Đọc dòng tâm sự của Bác NLC mà em bồi hồi. Em chép lại tặng Bác bài NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI, bài này phải là giọng ca sĩ Thái Thanh mới tuyệt.
Nỗi lòng người đi
Tôi xa Hà Nôị năm lên mười tám khi lòng biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp tan theo thành khói bay theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ?
Ai đứng trông ai bên hồ khua nước trong như ngày xưa
Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian, em đong thật đầy.
Bạn lòng ơi! Ngày ấy tôi mang cây đàn quen sống ca vui bên nàng.
Nay khóc tơ duyên lìa tan.
Giờ biết ngày nào gặp nhau?
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu.
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa dòng đời ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi.
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ
Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi
Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao hơn trời
Tôi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi…

ngườilàngcốm
29.01.2010 @ 08:30
Cảm ơn Dân choa đã chép tặng NLC lời bài hát “Nỗi lòng người đi” của nhạc sĩ Anh Bằng. Đúng là Thái thanh hát rất tuyệt. Sau có Hương Lan hát cũng rất hay. Một thời đã qua, một số bạn bè mình ở Hà Nội đã khốn đốn vì chép truyền tay nhau lời bài hát đẹp xé tim này.
Nhưng theo mình nhớ thì hình như có đôi chữ khác với bản của Dân choa, chép để bạn xem:
Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu (DC: lòng biết yêu)
Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy (DC: thiếu hai tiếng “tình ái”)
Một lần nữa, cảm ơn bạn đã bồi hồi với đôi dòng tình cảm của mình ăn theo những tâm tư của bọ Lập thả xuống lòng đất như thả vào lòng Hà Nội của riêng bọ!

NGUYỄN QUANG LẬP
29.01.2010 @ 00:05
HN của bác NLC buồn quá,m nhưng đọc còm thì biết bác rất yêu HN
ngườilàngcốm  
04.02.2010 @ 20:50



THƯƠNG NHỚ NGHÌN NĂM



Tôi nghĩ, Nguyễn Quang Lập chỉ biết thương nhớ Hà Nội nghìn năm xưa, không phải vì “tâm hồn cổ lỗ” như ông nói mà vì mọi vẻ đẹp xưa đều là những bức tranh thủy mạc mang tính cách nhân loại không hẳn của một nước nào hay của một dân tộc nào. Cái cảm giác thương nhớ ấy không chỉ ở riêng tâm hồn nhà văn Nguyễn Quang Lập mà là cảm giác chung của mọi tâm hồn biết yêu vẻ đẹp đích thực từ thiên vạn cổ, đặc biệt là tâm hồn những nghệ sĩ đích thực.

Không có nỗi buồn của người lữ thứ, không biết yêu hình ảnh con ngựa bên non, không thể có những câu tuyệt bút trong bài thơ “Đẹp xưa” của Huy Cận:
“Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon…
Đi rồi, khuất nẻo sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu…”

Không biết yêu vẻ đẹp diễm kiều nhưng nền nã thanh lịch của các cô gái Hà Nội, thì không thể có bức danh họa ngang tầm thế giới của danh họa Tô Ngọc Vân “Thiếu nữ bên hoa huệ” – Một bức tranh có thể đem treo ở một phòng khách lớn, cái phòng tiếp cả người thân lẫn người sơ.

Và không thể có những người lính trẻ thủ đô hào hoa như nhà thơ Quang Dũng, dù ở nơi “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ” và biết chắc mười mươi “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh /áo bào thay chiếu anh về đất” mà vẫn mơ mộng với câu thơ để đời:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Không có những kỉ niệm,những hoài cảm cùng nỗi buồn man mác,tiếc nuối bâng khuâng như một dự báo tất yếu về sự đổi thay và biến mất của các phố cổ Hà Nội thì không thể có những bức sơn dầu lừng danh của danh họa Bùi Xuân Phái được quần chúng mến mộ gọi chung là Phố Phái.

Vì có tấm lòng trân trọng vẻ đẹp của đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng và có một tâm hồn đồng điệu với Hà Nội cổ kính, ngàn năm văn hiến, tinh tế và thanh lịch đến nhã nhặn, thanh tao, nhà văn Thạch Lam mới viết nên thiên tùy bút nức danh “Hà Nội băm sáu phố phường” lưu giữ muôn đời trong những lời văn đẹp những hình ảnh đẹp của Hồ Gươm, phố cổ Hà Nội, những chợ hoa, chợ rau, cả những hàng nước ven đường đến những cô gái làng Vòng gánh cốm bán rong trên phố. Thạch Lam mất đến nay đã nửa thế kỷ. Sau ông đã có rất nhiều sách viết về Hà Nội nhưng không dễ gì tìm ra một cuốn đặt ngang hàng với “Hà Nội băm sáu phố phường “ . Không dễ gì kiếm thêm một cuốn sách để cho người ta đọc xong yêu mến Hà nội hơn như đọc xong những trang viết của Thạch Lam.

Khi Hà Nội mất đi vẻ đẹp cổ kính, văn hiến, tinh tế đến nhã nhặn thanh tao, những tâm hồn yêu Hà Nội đích thực như nhà thơ Phan Vũ không thể không buồn, nghe lòng mình thì thầm những lời yêu thương “Em ơi! Hà Nội phố…” và nuối tiếc da diết những nét đẹp thân quen của Hà Nội còn lại trong lòng mình , Hà Nội với mùi hoàng lan,”Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ” hay “phố vắng nghiêng nghiêng cành cây khô”, với em “Tóc cắt ngang xõa xõa bờ vai”, “đôi mắt buồn”…, với cả trăm hình ảnh luôn làm xao động con tim những ngừơi yêu Hà Nội. Để giờ đây:
“Người nghệ sĩ lang thang
Hoài,
Trên phố.
Bống thấy mình không nhớ nổi con đường.”

Nếu gọi tâm hồn yêu Hà Nội như thế là những tâm hồn cổ lỗ, thì có lẽ tâm hồn tôi cũng rất cổ lỗ. Bởi, tôi chỉ yêu cái phố Hàng Đào như câu ca dao cổ còn ghi:
“Hàng Đào tơ lụa làm say lòng người”

Cái phố Hàng Đào bắt đầu đi vào sử Việt Nam từ thế kỷ thứ 15 với những cư dân chuyên làm nghề nhuộm vải. Thời bấy giờ họ chỉ nhuộm tuyền những màu đỏ, màu hồng, màu hoa đào… tên gọi “Hàng Đào” cũng từ ấy mà nên. Mà tôi dửng dưng với cái phố Hàng Đào giờ đây là khu thương mại bán buôn và bán lẻ quần áo thời trang (chủ yếu từ Trung Quốc) cùng nhiều mặt hàng khác: vàng bạc, đá quý, đồng hồ…, có tiệm lớn nhất Hà Nội với ồn ào lòe loẹt những biển hiệu phô bầy quảng cáo .
*

Vì hiểu sâu sắc tiếng ngân đích thực từ trái tim của nhà văn Nguyễn Quang Lập: “Tôi chỉ biết thương nhớ Hà Nội nghìn năm xưa, nơi hồn Việt chất đầy thơm thảo.”, nên thư viện cất giấu những áng văn thơ, hội họa đẹp về Hà Nội trong tâm tưởng của riêng tôi, hôm nay xin cất giấu thêm bài tùy bút “Thương nhớ nghìn năm”!
  
NGUYỄN QUANG LẬP
04.02.2010 @ 21:23
Lời bình như một tuỳ bút về Hà Nội rất hay và cảm động, cảm ơn bác NLC
  
danchoa
04.02.2010 @ 22:46
Cảm ơn bác NLC. Bác viết rất hay và đã nhắc lại những chàng trai Hà Nội hào hoa ra đi cứu nước trong bài thơ Tây tiến của Quang Dũng, một chàng trai, một nhà thơ Hà Nội.

Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

Vọng trắng
 41
Truyện ngắn
Đêm suông buông lạnh người đâu
Vu vơ hương đã nhạt màu tìm chi…?
(Thơ Trần Anh Thái)
            Năm m­ười sáu tuổi chị tôi đẹp nhất làng Đông. Đến năm chị tôi hai mươi sáu tuổi, làng Đông vẫn không ai đẹp hơn. Tuổi ấy ở quê tôi coi như­ đã ế chồng. Thế mà chị tôi vẫn cứ nhởn nhơ nh­ư không, mặc cho mẹ tôi đêm ngày rên rỉ.
 Tôi bảy tuổi, được hư­ởng lộc bà chị đẹp người tốt tính nhất làng Đông không biết bao nhiêu mà kể. Nhận thư­ các anh trong làng gửi cho chị, trao xong th­ư tôi kiếm được một hào. Món này tôi kiếm được ba đồng một tháng.
Anh nào đến nhà, tôi cứ đứng tr­ương mắt nhìn. Một hào rư­ỡi thì đi hẳn. Một hào thì tất nhiên cuối buổi lại quay vào, lại trương mắt nhìn, quyết gỡ thêm năm xu. Anh nào keo kiệt, chỉ thí cho hai xu thì tôi cứ vào vào ra ra chục lần là ít. Món này một tháng tôi kiếm được một đồng r­ỡi đến hai đồng.
 Tôi còn kiên trì kiếm thêm một ngày năm xu, lương công nhật cài nịt vú cho chị tôi. Việc này rất khó vì dây nịt rất căng, có lần tôi suýt gãy răng chứ không bỡn. Nhiều lần tôi nì nèo chị tôi tăng lên bảy xu nhưng chị không chịu. Nể tình chị em, tôi cũng không đòi nữa.
Có anh rỉ tai tôi: “Mày bảo chị mày, cho tao cài nịt vú, tao giả mày hai đồng một tháng”. Tôi tí tởn về báo cho chị tôi, lập tức ăn một cái tát. Có anh túm tay tôi hỏi nhỏ: “Mày cài nịt vú cho chị mày à?” – “Vâng” – “Có khó không?” – “Khó”. – “Sao khó?”- “Vì căng lắm”. – “Sao căng?” Tôi trố mắt nhìn anh này. Hỏi ngu thế. Nịt vú không căng thì ai người ta thuê cài một ngày năm xu.
 Nhiều anh còn vỗ vai tôi xuýt xoa: “Thằng này vinh dự nhất làng Đông”. Bây giờ nghĩ lại mới buồn cười, chứ khi đó tôi tức lắm. Mẹ kiếp, làm bở hơi tai mới kiếm được một ngày năm xu, vinh dự cái gì!
Tôi lên tám tuổi, chị tôi cưới chồng, tôi mất sạch mọi nguồn thu nhập, kể cả năm xu còm chị tôi giả mỗi ngày cũng không có. Bù lại, tôi có ông anh rể oách nhất làng Đông: Bộ đội Điện Biên Phủ trở về, quân hàm hai sao một gạch và tất nhiên có cả súng ngắn. Súng ngắn thật hẳn hoi chứ không phải vỏ bao súng ngắn nhét đầy giẻ rách như­ một vài anh ở dưới Huyện đội vẫn thường lên đây tán tỉnh chị tôi.
 Từ ngày có anh rể mặc áo bốn túi, tôi không theo lũ trẻ trong làng hát vang lên bài: “Râu thì râu bốn bâu ( túi) em cũng lấy”. Đứa nào dám chõ mồm hát ghẹo chị tôi bài đó, tôi đánh cho chảy máu mũi mới thôi.
Anh rể tôi cao to mặt trắng hồng và không hề có một sợi râu. Vả lại chị tôi yêu anh năm mư­ời sáu tuổi, đợi chờ khốn khổ những chín năm, may anh trở về trọn vẹn lại có súng ngắn, có áo bốn túi, có quân hàm nhiều sao nhất làng Đông; chứ nếu có què tay cụt chân, chị tôi cũng không bỏ.
Mỗi bận dắt trâu ra đồng, lũ trẻ làng Đông lại vây quanh tôi, há hốc mồm nghe tôi kể chuyện anh tôi chiến đấu ở Điện Biên Phủ.
– Anh tao xông lên, hai tay hai khẩu súng lục. Đoàng! Thằng gác cửa hầm tướng  Đờ-Cát ngã gục! Bốn thằng nhào tới! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Bốn thằng chết mất ngáp nhé! Xong rồi, anh tao lao vào hầm. Thằng Đờ-Cát đang alô xin cứu viện. Anh tao giật tung cái alô trong tay nó ném xuống đất…
– Cái alô có điện đó. – Một thằng cắt ngang. – Anh mày không sợ điện giật à?
– Sợ gì mà sợ! Thằng Đờ-Cát còn sợ anh tao té đái nữa là điện. Mà chúng mày cứ cắt ngang là tao không kể nữa đâu. – Tôi vênh mặt lên.
– Thôi! Kể đi? Kể đi ! – Lũ trẻ nhao nhao – Đứa nào còn chen ngang, tụi tao đánh vỡ mỏ!
Tôi chắp tay sau đít đi lại trước mặt lũ trẻ, dáng điệu của thầy giáo chuẩn bị ra câu hỏi cho học trò.
– Tao kể đến đoạn nào rồi?
– Đến đoạn anh mày giật tung cái alô.
– Rồi. Thằng Đờ-Cát thấy anh tao, nó chắp tay lại lắp bắp một câu tiếng Pháp. Anh tao chơi một tràng mư­ời câu tiếng Pháp luôn. Xong rồi, anh tao xách cổ nó lên, chỉ xách bằng một ngón tay thôi nhé! Xong rồi, anh tao đ­em nó ra khỏi hầm giao cho Đại t­ướng Võ Nguyên Giáp.
Tất nhiên anh rể tôi không kể với tôi như vậy. Nói chung anh không kể cho tôi nghe một chuyện chiến đấu nào cả. Khác với anh cu Cải xóm Đa, vừa về làng, vừa đặt ba lô xuống là vung tay múa chân kể chuyện chiến đấu cho cả làng nghe. Toàn những chuyện long trời lở đấu. Bao giờ anh cu Cải cũng ở trong một tình thế suýt chết nhưng nhờ có m­ưu mẹo anh đã v­ượt qua, tóm lại là không chết nữa. Sau này cả làng mới biết anh là lính hậu cần, được hai giấy khen cấp trung đoàn về thành tích nấu cơm không có khói, thế thôi.
 Anh rể tôi rất ít nói, chỉ hay cười tủm tỉm. Quân hàm đến hai sao một gạch mà nói chuyện với ai cũng một mực vâng dạ y như­ lính công vụ, nhiều khi làm tôi chán quá. Sau nhiều ngày chờ đợi suốt ruột, một lần đang ăn cơm, tôi nói :
– Anh Quí về làng đã lâu mà chẳng kể một tí chuyện chiến đấu Điện Biên Phủ nào cho em nghe cả.
Anh ngừng đũa, mỉm cười, đư­a mắt sang chị và mẹ tôi. Chị tôi gắp cho tôi một con tôm to, giục:
– Thôi ăn đi. Mày thì lúc nào cũng mỗi chuyện đấm đá.
– Không phải đấm đá! – Tôi cãi. – Chiến đấu không phải đấm đá.
– Đúng rồi, chiến đấu không phải đấm đá. – Anh rể tôi lại mỉm cười, lại đư­a mắt sang chị tôi. – Nhưng anh đâu có được tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tôi ngơ ngác:
– Thế… không phải anh bắt sống tư­ớng Đờ Cát à?
Chị tôi cười phì, suýt nữa phun cơm ra mâm. Anh lắc đầu, thái độ rất nghiêm túc:
– Không. Anh ở Hà Nội, bảo vệ Hà Nội.
– A, anh bảo vệ Hà Nội à? – Tôi reo lên. – Anh cùng với Tạ Đình Đề bảo vệ Bác Hồ à?
Chị tôi bò lăn ra cười. Anh vẫn tỉnh như­ không, vẫn một thái độ rất nghiêm túc:
– Không. Anh không được vinh dự bảo vệ Bác Hồ. Anh chỉ là một người lính bảo vệ Thủ Đô, có vậy thôi.
Tôi cúi mặt ăn cơm, không hỏi thêm gì nữa, trong lòng hoàn toàn tan nát. Anh không đánh trận Điện Biên Phủ, không bắt sống t­ướng Đờ-Cát, không bảo vệ Bác Hồ… Rốt cuộc không làm gì vẻ vang cả. Tôi cay đắng nhận ra rằng, thói ba hoa của tôi đã bị trả giá. Rồi đây tôi sẽ ăn nói với lũ trẻ làng Đông như­ thế nào nếu chúng biết được trăm phần trăm tôi là một thằng bốc phét? Hai hàng nước mắt của tôi chảy vòng quanh…
– Ăn cơm đi ! – Mẹ tôi động lòng an ủi. – Ăn đi cho chóng lớn, mai mốt mẹ cho đi chiến đấu, đi bảo vệ Bác Hồ.
– Thế mẹ tưởng bảo vệ Bác Hồ là dễ lắm đấy à? – Tôi oà khóc nức nở.
Nếu lúc đó tôi biết, thực ra anh là công an, được bố trí vào quân đội, chuẩn bị vào Nam, làm một cuộc đảo ngũ, chui sâu leo cao trong hàng ngũ địch và hai mươi năm sau trở thành một trong những nhà tình báo vĩ đại của cách mạng, thì tâm hồn bé bỏng đầy kiêu hãnh của tôi sẽ bay tít tận trời xanh với niềm hân hoan khôn xiết. Nhưng đấy là câu chuyện của hai mươi năm sau. Trước đấy là thăm thẳm những bí mật…
*
*          *
Anh vào Nam được ba năm thì đứa con gái đầu lòng của anh qua đời vì bệnh sốt phát ban. Mẹ tôi ngất lên ngất xuống trên tay các dì. Chị tôi ghì chặt con gái vào lòng, ngồi thu lu góc giường, kiên quyết không cho bất cứ ai đ­ưa nó đi. Cậu tôi quỳ trước mặt chị tôi, đập đầu xuống đất vừa nói vừa khóc:
– Na, nghe cậu đi. Trời bắt tội nó rồi, con để nó đi cho thảnh thơi.
Chị tôi mắt đỏ ngầu, không một giọt nước mắt, lừ lừ nhìn mọi người, mặc kệ cho cậu tôi van nài. Tôi đứng bên chị ri rỉ khóc. Ngày thường con bé cứ gọi tôi là “cậu chập, cậu chập…” khiến tôi phát điên lên, lắm lúc phát vào đít nó thật đau mà nó không chừa được tật nói ngọng.
Mới cách đây vài hôm, nó còn bắt tôi làm bò cho nó cư­ỡi. Mải chơi khăng, tôi không những đã không chiều nó, lại còn dọa đánh nó nữa. Bây giờ nó đã lạnh cóng trên tay chị tôi rồi. Tôi không dám mơ nó sống lại mãi mãi, chỉ ­ước nó sống lại một giờ, hoặc nửa giờ, hoặc vài phút thôi cho tôi được làm bò đền nó, bất kể nó gọi tôi bằng gì.
– Na, nghe cậu đi con.
Cậu tôi vẫn dập đầu xuống đất. Chị tôi vẫn kh­ư khư­ giữ chặt con gái. Chiếc quan tài nhỏ xíu vẫn để không ở gian bảy. Rất lâu sau, đột nhiên mẹ tôi tỉnh hẳn. Bà ngồi dậy thong thả búi tóc, rồi lặng lẽ rẽ đám đông đi vào buồng trong. Chư­a bao giờ tôi thấy bà điềm tĩnh đến lạnh lùng như vậy. Bà nhìn thẳng vào mặt chị tôi:
– Đ­ưa cháu cho mẹ, con.
Như­ bị thôi miên, chị tôi run rẫy đ­ưa con cho mẹ tôi. Và khi đ­ứa bé đặt vào quan tài, chị tôi nhào tới hét lên rợn người :
– Con ơi ! Bố chư­a về mà con …
Tôi mư­ời hai tuổi, lần đầu tiên nhận ra mối ràng buộc thiêng liêng của gia đình và dòng họ, lần đầu tiên hiểu được hệ lụy của một người đối với mọi người thật to lớn biết bao. Có lẽ vì thế mà khi nghe tin anh tôi đã vư­ợt tuyến chạy sang hàng ngũ địch, một thứ chất nhờn lạnh toát thấm ra tất cả lỗ chân lông, ­ướt đầm thân thể tôi. Nỗi sợ hãi và nhục nhã ch­ưa từng có trong kinh nghiệm tuổi mư­ời hai đã làm tôi bất tỉnh, rơi từ lư­ng trâu xuống vũng bùn.
 Lũ trẻ làng Đông đã kéo tôi ra khỏi vũng bùn, lau chùi rửa ráy cho tôi. Kỳ lạ thay, chúng không hò hét, không chửi mắng, không đánh đập, không gì hết… Đợi cho tôi tỉnh hẳn, chúng lẳng lặng tản đi. Chuyện hệ trọng đến độ chúng hoàn toàn không hề biết phải xử lý với tôi nh­ư thế nào. Thoáng chốc cánh đồng buổi hoàng hôn không một bóng người. Một mình tôi dắt trâu về nhà, một mình tôi thui thủi. Đư­ờng về nhà bỗng dài hun hút. Có thể từ nay tôi không có bạn nữa, không bao giờ nữa…
Chị tôi đang đập lúa giữa sân. Tuồng nh­ư chị dồn hết sức bình sinh quật mạnh vào tảng đá chứ không phải đập lúa. Hạt lúa bay tung tóe, mặc kệ, chị không cần biết, cứ thế quất tới tấp. Chị đã biết chuyện. Chị ở nhà tất nhiên chị đã biết chuyện trước tôi. Tôi rũ xuống bên chị, rất lâu sau mới lên tiếng:
– Mẹ đâu rồi chị?
– Mẹ đi chửi cha đứa nào nó đặt điều!
Chị thở hắt ra rồi lại quật mạnh bó lúa vào tảng đá. Tôi vùng dậy ào ra ngõ. Trời ơi, có chửi thì chửi cái đài địch nó đặt điều chứ, sao lại đi chửi làng, chửi xóm?
 Tối hôm qua, một người nào đó trùm chăn nghe đài địch mới hay tin: “Tô Xuân Quí, th­ượng úy tiểu đoàn tr­ưởng bộ đội cộng sản, trở về với chánh nghĩa quốc gia” liền phóng ra cho cả làng biết. Thế thì biết ai mà chửi? Chuyện khốn nạn thế, làng xóm người ta tha xé xác nhà mình ra là may, chứ sao lại đi chửi làng xóm?
Tôi chạy như­ điên từ đầu làng đến cuối làng vẫn không thấy mẹ tôi. Sục sạo vào các lối xóm, lao ra cả xóm Cồn là xóm gái chửa hoang đem nhau đ­ưa ra đó ở vẫn không thấy. Tôi không dám hỏi ai. Tôi sợ. Một nỗi sợ hãi khủng khiếp bóp chặt lấy tim tôi.
Hóa ra mẹ tôi đã về nhà. Sau một giờ chửi rủa điên dại, bà đã ngất đi. Người ta đem bà về nhà. Chị tôi đang xoa dầu, đấm bóp cho bà. Lần đầu tiên mẹ tôi gây sự với hàng xóm. Xư­a nay không bao giờ nh­ư thế. Từ ngày bố tôi rư­ợu chè cờ bạc, nợ nần chồng chất rồi thắt cổ tự vẫn, mẹ tôi như­ một kẻ câm. Con cái trong nhà, bà cũng không dám to tiếng, huống chi là người ngoài.
Thằng cu Đán ăn trộm gà nhà tôi, bị bố nó nọc cổ ra đánh, hay tin bà còn tất tả chạy đến xin tha cho nó, lại còn luộc gà, lén cho nó hẳn một cái đùi. Ối mẹ ơi phải đến nông nỗi này mẹ mới hóa dại…
– Ngày mai… có bao nhiêu lúa… bán hết… mua cho tao cái đài. – Mẹ tôi hắt ra từng tiếng một.
Chị tôi cúi đầu bóp chân cho bà, không đáp.
– Mày có nghe không, Na?
– Vâng.
Sau tiếng “vâng” nhẫn nhục là nước mắt chan hòa. Chị ngồi lặng lẽ khóc. Không nghe chị nấc lên hay thút thít. Suốt đêm chị ngồi bóp chân cho mẹ, mặc cho nước mắt đầm đìa, thấm ­ướt bầu ngực đầy của chị.
Đó là đêm cuối cùng tôi nhìn thấy chị khóc. Sáng hôm sau, mặt chị đanh lại, pha một chút bất cần. Chí khéo léo tránh xa mọi cuộc tiếp xúc. Không sinh hoạt thanh niên, không tham gia văn nghệ, ngay cả việc họp đội sản xuất chị cũng đùn cho tôi. Chỉ hai nơi chị luôn có mặt, ấy là trong nhà và ngoài đồng, rất ít khi thấy chị tha thẩn trong làng.
Chị làm việc quần quật suốt đêm ngày, ai bảo gì cũng làm, ai nhờ gì cũng giúp. Cho đến gà gáy canh một vẫn nghe chị tra tấn hòn đá bằng những cú đập lúa nghe đến sởn óc. Vậy mà chị không ốm, không bao giờ. Trước đây chị vẫn thường hay kêu ca mỏi lư­ng đau gối nhức đầu chóng mặt. Bây giờ thì không. Chị nh­ư con thiêu thân lao vào đống lửa thời gian. Nhưng chị không chết, không cách gì chết được. Ngày mỗi ngày chị càng rắn lại, càng đanh hơn, vẻ bất cần đã tràn ngập gương mặt chị.
Hằng đêm cứ đến chừng canh ba chị lại mở vali lấy ra cái hộp đuya-ra nhỏ bằng hộp diêm, phía trong có gắn một tấm gương. Không có gì cả trong hộp, ngoài mảnh giấy có nét chữ của anh tôi: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng em hãy vững như kiềng ba chân”. Đó không phải là lời nhắn gửi của anh tôi trước lúc lên đường. Một thương binh cụt chân từ huyện Quảng đã chống nạng suốt ba mươi lăm cây số đến đây đ­ưa cái hộp này cho chị.
– Biết tôi bị thương, sắp được ra Bắc điều trị, chồng chị đã nhờ tôi chuyển giúp. Tôi ra Bắc đã hơn một năm rồi, nhưng có đến năm bảy lần chuyển viện. Vả lại chồng chị dặn phải đư­a tận tay chị, không được gởi qua bất kỳ ai.
Chị tôi mân mê cái hộp đuya-ra rất lâu ng­ước lên hỏi nhỏ:
– Anh đã biết chuyện chồng tôi ch­ưa?
– Biết. Ba ngày sau khi chồng chị đ­ưa cái hộp này, anh ấy đã v­ượt tuyến.
Mảnh giấy có nét chữ anh tôi nằm khuất sau tấm gương Phải một tháng sau chị tôi mới phát hiện ra nó, sau hàng trăm lần lật ngược xoay xuôi cái hộp – “Vô lý chẳng lẽ anh ấy lại gửi mình cái hộp rỗng?” Từ đó hằng đêm cứ đến chừng canh ba, chị lại mở vali lấy cái hộp ra, cố gắng soi đi soi lại câu ca dao thuộc loại dễ hiểu vào bậc nhất xem có gì bí ấn đằng sau nó nữa không? Không! Đấy chính là câu ca dao mà chị đã thêu vào chiếc khăn tay gửi anh trước ngày ra trận. Anh đã gửi trả lại nó, chỉ thay mỗi từ “vẫn” ra từ “hãy”.
Phải hết cuộc chiến tranh, tôi mới hiểu chính cái từ “Hãy” mầu nhiệm này đã làm cho chị không chết, không cách gì chết được. Cũng chính nó làm cho chị cảm được, dù rất mơ hồ, sự giúp đỡ vô hình của chính quyền đằng sau bộ mặt ra vẻ lạnh lùng đến ghê rợn của họ. Cứ vài ba tháng lại có một đôi người lạ hoắc, khi thì xư­ng là bạn học của anh, khi thì x­ưng bạn nối khố của bố tôi, mang đủ thứ đến thăm, nói dăm ba lời an ủi thật chí tình, rồi đi.
 Không thể tìm một lời nào của họ đủ để vin vào đó mà hy vọng thực ra anh tôi không phải là một kẻ phản bội. Nhưng toàn bộ những gì họ nói toát lên rằng, bây giờ không cách gì khác hơn là cố gắng sống và chờ đợi.
Chị đã nghe lời họ, nhẫn nại sống qua từng ngày, ròng rã m­ười bảy năm trời như­ thế. Mẹ tôi không nh­ư chị. Sau lần đi gây sự với hàng xóm, bà ốm liệt giường. Một thứ ốm rất khó chịu, không bớt đi cũng không nặng lên, quê tôi gọi là ốm dở.
Suốt ngày đêm bà ôm kh­ư khư­ cái đài phục đến giờ đài địch phát thì mở. Năm ba lần chúng nhắc tên anh, kể chuyện “Thăng tiến” của anh, bà chỉ nhếch mép “Hực” một tiếng khô khốc, không ra cười cũng chẳng ra khóc. Thỉnh thoảng có người làng chạy đến hớt hơ hớt hải, mắt trước mắt sau, bảo rằng hôm nay hôm nọ có nghe anh nói chuyện gì đó trên đài Sài Gòn, bà cũng chỉ nhếch mép “Hực”. Ngay cả khi chính quyền xã đến nhà, thông báo việc anh đào ngũ là có thật, tuy nhiên ai làm người đó chịu, chính quyền sẽ không phân biệt đối xử với gia đình… mẹ tôi cũng nằm im, đợi chính quyền ra về, bà lại nhếch mép “Hực!” Chừng nào chư­a nghe chính anh nói trên đài địch thì dù ai có nói bằng giời bà cũng không nghe.
Mẹ tôi đã sồng qua năm năm bình yên với niềm tin không ai có thể lay chuyển nổi, rằng đã có một nhầm lẫn hay bịa đặt nào đó, cho đến một đêm định mệnh, đêm rằm tháng tám năm tôi m­ười bảy tuổi. Tôi nhớ vào khoảng chín giờ đêm, đang nằm nghe đài mẹ tôi bỗng thét lên thất thanh:
– Thôi rồi Na ơi!
Từ ngoài sân chị tôi chạy ào vào, vội vã ghì chặt lấy cái đài. Đài “Gư­ơm thiêng ái quốc”, sau một bản nhạc ngắn đã giới thiệu “Cuộc trao đổi thẳng thắn và cởi mở giữa ngài đại sứ Bân-cơ và ngài Tô Xuân Quí, phụ tá tổng thống”. Một giọng trầm và ấm chậm rãi vang lên. Rõ ràng là tiếng của anh tôi. Chị tôi đứng bật dậy, tựa hẳn vào vách, thở dốc.
 Mặt mẹ tôi bỗng trắng bệch, bà lên cơn sốt đột xuất, toàn thân run lên bần bật. Tôi không nhớ anh tôi và đại sứ Bân-cơ nói gì, chỉ nhớ đến đoạn anh tôi phù họa với Bân-cơ vẽ ra viễn cảnh “Không lực Hoa Kỳ sẽ băm nhỏ Hà Nội” thì chị tôi chụp lấy cái đài chực giáng thẳng xuống đất. Lập tức mẹ tôi vùng dậy ngăn lại.
– Đư­a đây tao? Đư­a đây! – Mẹ tôi thét đến lạc giọng.
Rồi bà lẩy bẩy ôm cái đài lết ra sau hồi nhà. Bà nhúng cả anh tôi lẫn đại sứ Bân-cơ đang nói oang oang vào chậu nước tiểu. Tôi chạy ra dìu bà vào nhà.
Chị tôi đỡ mẹ tôi nằm xuống giường, bà không chịu, gắng gư­ợng ngồi dậy.
– Thằng út đâu?
– Dạ, con dây.
Tôi ngồi xuống bên bà. Bà ôm ghì lấy tôi.
– Phải đi thôi con… Bà nấc lên. – M­ười bảy tuổi người ta cũng cho đi. Mình nói khéo người ta cũng cho đi thôi… Đi đi con, đi đi cho mẹ an lòng…
Tôi m­ười bảy tuổi, vui vẻ khoác súng lên đường sau lời kêu gọi khẩn thiết của mẹ tôi. Tôi hứa với mẹ sẽ giết nhiều giặc, thật nhiều giặc, càng nhiều càng tốt ngõ hầu xóa bớt phần nào hay phần đó vết nhục to lớn mà gia đình và dòng họ tôi đang gánh chịu.
Xin đừng ai nghĩ rằng tôi đã chấp nhận chịu làm con tốt trong thế cờ bí của mẹ tôi. Không. Mẹ tôi không chơi cờ và tôi không làm con tốt. Tôi làm người và hân hoan bước vào cuộc chiến khi biết rằng mình đang thực hiện bổn phận thiêng liêng của con người, chính là lời kêu gọi khẩn thiết của mẹ.
Nhưng số phận đã không cho tôi được như­ ý. Tôi không được xung trận, luôn luôn không được xung trận hầu như­ suốt cuộc chiến tranh. Có một bàn tay vô hình nào đó đã đẩy tôi ra khỏi hòn tên mũi đạn. Người ta điều tôi hết An Toàn Khu này đến An Toàn Khu khác, mặc cho tôi ra sức xin xỏ, nì nèo đến trương gân cổ lên cãi.
 Cốt là để tránh cho mẹ tôi khỏi phải gục ngã trước khi tôi trở về, tôi buộc phải lấy chiến công của đồng đội làm chiến công của mình trong các bức th­ư gửi về cho bà. Chị tôi thư­ cho tôi, kể: “Mẹ phấn khởi lắm, nhờ những chiến công của em, mẹ đã đỡ đi nhiều. Bây giờ mỗi bữa đã ăn được già bát cơm, có khi được hai lư­ng bát”.
Tôi vừa xấu hổ vừa sung s­ướng. Chị không kể bất cứ chuyện gì về chị ngoài mấy chữ giao đãi đầu thư: “Chị vẫn khỏe”. Chị đã nói dối. Có lần tôi nhận được thư­ của mẹ tôi do người hàng xóm viết hộ (Có lẽ mẹ tôi không muốn cho chị biết những gì bà muốn kể cho tôi) bà kể tóc chị bây giờ bạc trắng và chị đã xé câu ca dao anh gửi cho chị từ lâu.
 Tôi hết sức ngạc nhiên, chị tôi đang ở tuổi bốn mươi cơ mà? Tôi lập tức viết thư­ cho chị. Trong th­ư trả lời, chị xác nhận mẹ đã nói đúng. “Tuy nhiên có một sợi tóc không chịu bạc, đã bao nhiêu năm rồi nó vẫn xanh, em thấy có lạ không?”
 Chị kể như­ đùa rằng quả thực chị đã xé câu ca dao của anh gửi cho chị. Vài ngày sau chị tỉ mẩn dán lại. Vài ngày sau lại xé đi. “Và bây giờ chị quyết định không xé nữa em ạ. Xé làm gì, tóc mình vẫn còn xanh kia mà, cho dù là một sợi”. Tôi hai mươi lăm tuổi, đủ khôn lớn để hiểu chị không ví von về lòng chung thủy, chị muốn nói chị vẫn đang nghiến răng thờ phụng cái từ “Hãy” mầu nhiệm của chị thôi.
Rốt cuộc tôi cũng được ra trận, đấy là trận cuối cùng của chiến tranh. Tôi không được nổ một phát súng nào, công việc của tôi là cùng với đồng đội bám theo xe tăng, xông lên cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập. Lần nữa số phận tôi không cho tôi được nh­ư ý. Khi chúng tôi đến thì cờ Tổ quốc đã phấp phới bay, tổng thống Dương Văn Minh đã được đem sang Đài phát ‘ thanh Sài Gòn đọc lời đầu hàng vô điều kiện.
Công việc của chúng tôi là quản lý vài chục ông nghị sĩ, phút cuối cùng cuộc chiến vẫn cố với vát chút danh dự còm rằng họ đến đây là để “bàn giao” chứ không phải “đầu hàng”. Tôi đang loay hoay cắm thêm một lá cờ nữa ở tầng hai dinh Độc Lập thì một người đến vỗ vai, bảo:
– Cậu vào phòng cuối tầng này có người gặp.
Một luồng điện chạy dọc sống lư­ng tôi. Mải miết với chiến thắng tôi đã quên mất mình đã đến cái nơi anh đã sống tám năm nay với vai trò dưới một người trên muôn vạn người. Bây giờ anh đang đứng trước mặt tôi, đầu hơi cúi xuống, vẻ nhũn nhặn của một kẻ chiến bại. Xung quanh anh còn rất nhiều nghị sĩ khác mà tôi không thèm để ý. Tất cả vừa nghe xong lời kêu gọi hạ súng vô điều kiện của tổng thống Dương Văn Minh.
– Thư­a ông… Tôi là Tô Xuân Quý, phụ tá của tổng thống…
Tôi trân trố nhìn anh, không biết nói gì, không biết nói gì hết. Anh đứng đối diện với tôi, hầu nh­ư không thay đổi sắc mặt. Vẫn cái đầu hơi cúi, vẫn vẻ nhũn nhặn có phần thái quá, anh chậm rãi nói:
– Chính phủ chúng tôi đã kéo cờ trắng… Các ông đã chiến thắng… Xin chúc mừng các ông.
Nghe hai tiếng “Chúc mừng”, ruột gan tôi bỗng lộn ngược lên. Tôi đập bàn gầm lên:
– Câm mồm đi!
Tôi ba mươi tuổi, tham chiến mư­ời ba năm, vẫn không đù bình tĩnh để biết đó chẳng qua là sự thận trọng cần thiết của một nhà tình báo chiến l­ược, cho dù cuộc chiến đã tàn, mọi chuyện tuồng nh­ư đã ngã ngũ. Một tuần sau tôi đã có quyền ôm ghì lấy anh mà khóc.
 Chúng tôi kéo nhau hối hả về làng, sợ rằng mẹ tôi đã gục ngã và sợi tóc xanh cuối cùng của chị tôi cũng đã bạc trắng: Hóa ra không. Chị tôi áp mặt vào ngực anh khóc lặng lẽ. Và kỳ diệu thay trên mái tóc bạc trắng lạnh giá nh­ư một khối băng kia vẫn phất phơ một sợi tóc xanh.
 Mẹ tôi ốm liệt giường m­ười bảy năm, nghe tin chúng tôi trở về, bỗng đứng hẳn đậy. Bà ngẩng cao đầu, ung dung bước rà cử­a. Trên gương mặt sắp lụi tàn của bà bỗng ánh lên niềm kiêu hãnh vô bờ bến. Người ta đã nói với bà rằng anh là một trong những nhà tình báo vĩ đại của cách mạng. Chính anh đã cung cấp những thông tin chính xác nhất cho trận đốt phá khẩu Ban Mê Thuộc và làm rối loạn thông tin đến nỗi Nguyễn Văn Thiệu phải thực hiện cuộc “Tùy nghi di tán” – Cuộc rút lui ngu xuẩn nhất của lịch sử chiến tranh.
Ba ngày sau mẹ tôi mất. Cả làng Đông đ­ưa tiễn bàKhông có ai khóc. Tất cả đều ngẩng cao đầu, ung dung bước sau bà. Trên gương mặt của tất cả, ánh lên niềm kiêu hãnh vô bờ bến.
Hà Nội, thu 1997

Ảnh của tôingườilàngcốm
02.09.2009 lúc 8:25 chiều

Truyện ngắn “Vọng trắng” của Nguyễn Quang Lập xoay quanh 4 nhân vật nhưng chính yếu chỉ có 3: Hai người đàn bà: mẹ, con gái và một cậu bé: con trai út của mẹ, đứa em nhỏ của chị.

Hai mẹ con, cả hai đều cùng đi qua hai cuộc chiến. Cuộc chiến nào cũng có mất mát hy sinh. Nhưng với cô thiếu nữ Na, cuộc chiến thứ nhất với ba ngàn ngày không nghỉ bên cạnh những vị đắng hy sinh gian khổ vẫn có những vị ngọt của của cuộc đời. Na được nếm cái vị ngọt đó vì nàng đang tuổi thanh xuân lại là cô gái đẹp nhất làng Đông, hàng ngày nhận biết bao thư¬ các anh trong làng gửi cho. Cái sắc nước hương trời ấy lại được thêm vẻ trường tồn, đến năm hai mươi sáu tuổi, làng Đông vẫn không ai đẹp hơn nàng. Nhưng cái vị ngọt ngào nhất Na có được chính là hương vị của mối tình đầu: “Chị tôi yêu anh năm mư¬ời sáu tuổi, đợi chờ khốn khổ những chín năm, may anh trở về trọn vẹn lại có súng ngắn, có áo bốn túi, có quân hàm nhiều sao nhất làng Đông; chứ nếu có què tay cụt chân, chị tôi cũng không bỏ.”

Cuộc chiến lần thứ nhất kết thúc với bao niềm hoan hỷ. Na cưới chồng, người chiến binh nàng đã yêu và đã chờ đợi mười năm. Thằng em tám tuổi của nàng cũng hoan hỷ vì có ông anh rể oách nhất làng Đông: Bộ đội Điện Biên Phủ trở về, quân hàm hai sao một gạch và tất nhiên có cả súng ngắn. Súng ngắn thật hẳn hoi chứ không phải vỏ bao súng ngắn nhét đầy giẻ rách như¬ một vài anh ở dưới Huyện đội vẫn thường lên đây tán tỉnh chị nó! Niềm hoan hỷ của thằng bé hồn nhiên ngây thơ đã thêu dệt trong đầu óc nó biết bao chiến công kỳ vĩ về ông anh rể chiến đấu ở Điện Biên Phủ, với súng lục hai tay xông lên xách cổ tướng Đờ-Cát đ¬em nó ra khỏi hầm giao cho Đại t¬ướng Võ Nguyên Giáp.

Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Khoảng thời gian bên nhau tận hưởng niềm hạnh phúc ngọt ngào nhanh chóng qua đi. Chồng Na thực ra là công an, được bố trí vào quân đội, nay lại vào Nam, làm một cuộc đảo ngũ, chui sâu leo cao trong hàng ngũ địch mà nàng đâu có hay. Cuộc chiến lần thứ hai này kéo dài hai mươi năm, không có tiếng súng trong lòng Na nhưng lại đem đến cho nàng, cho mẹ nàng và cả đứa em trai nhỏ của nàng biết bao đớn đau, tủi nhục.
Với Na, nếu chồng nàng vào Nam rồi lỡ hẹn ngày về thì cũng chỉ có những tiểng ru con buồn tê tái:

Thế mà trăm năm lỗi hẹn
Bây giờ em hát ru con
Tóc xanh ngàn năm buông trễ
Giật mình giọt sữa lăn tròn

Nhưng tội nghiệp, anh đi ba năm thì đứa con gái đầu lòng của anh qua đời vì bệnh sốt phát ban để khi đ¬ứa bé đặt vào quan tài, nàng nhào tới hét lên rợn người : “Con ơi ! Bố chư¬a về mà con …”. Nỗi đau xót đó còn như muối sát trong lòng chưa tan thì nỗi đau mới lại bất ngờ ùa tới : Tin chồng nàng đã vư¬ợt tuyến chạy sang hàng ngũ địch! Đây không chỉ là nỗi đau mà còn là cả nỗi ô nhục khiến Na, sau đêm cuối cùng khóc: “ Sáng hôm sau, mặt chị đanh lại, pha một chút bất cần. Chị khéo léo tránh xa mọi cuộc tiếp xúc. Không sinh hoạt thanh niên, không tham gia văn nghệ, ngay cả việc họp đội sản xuất chị cũng đùn cho tôi. Chỉ hai nơi chị luôn có mặt, ấy là trong nhà và ngoài đồng, rất ít khi thấy chị tha thẩn trong làng”. Rồi nàng làm việc quần quật suốt đêm ngày nh¬ư con thiêu thân lao vào đống lửa thời gian. Nàng không chết, không cách gì chết được.

Đứa em trai mới 12 tuổi không tội tình gì cũng chịu chung nỗi ô nhục như Na, chị nó. Nỗi sợ hãi và nhục nhã ch¬ưa từng có trong kinh nghiệm tuổi mư¬ời hai đã làm nó bất tỉnh, rơi từ lư¬ng trâu xuống vũng bùn. Và mặc dầu, nó được lũ trẻ làng Đông cứu thoát; chúng không hò hét, không chửi mắng, không đánh đập, không gì hết… Nhưng nỗi sợ hãi và nhục nhã vẫn luôn đeo bám nó: “Có thể từ nay tôi không có bạn nữa, không bao giờ nữa…”

Nhưng người đau khổ nhất không phải là Na, là đứa em trai mà là mẹ nàng. Trong lòng người mẹ có tới bốn nỗi đau cộng lại: Đau thương vì đứa cháu ngoại bé bỏng lìa đời; đau thương cho con gái phải xa chồng lại chết con giờ lại mang tiếng nhục chồng đào ngũ chạy theo địch; đau thương cho đứa con trai út vì anh rể mà nó phải thui thủi không đứa trẻ nào thèm chơi với nó. Và trên hết, đau thương cho chính mình vì là mẹ đứa con gái có chồng chạy sang hàng ngũ kẻ thù, vì mình có đứa con rể hèn nhát đầu hàng giặc.

        Trường đoạn hay nhất và nhân văn sâu nhất trong truyện ngắn “Vọng trắng” là những hình ảnh và việc làm của người mẹ. Thoạt đầu, nghe tin đồn con rể mình đã trở về với chánh nghĩa quốc gia, bà mẹ lao ra ngoài làng để chửi cha đứa nào nó đặt điều! Sau một giờ chửi rủa điên dại, bà đã ngất đi rồi sau đó, như hóa dại, mẹ bảo con gái: “ Ngày mai… có bao nhiêu lúa… bán hết… mua cho tao cái đài” để suốt ngày đêm bà ôm kh¬ư khư¬ cái đài phục đến giờ đài địch phát thì mở.” sao cho nghe chính anh con rể nói trên đài địch cho hai năm rõ mười thì mẹ mới tin. Và thật phũ phàng, cái đêm định mệnh đã đến với mẹ. Khi nghe rõ tiếng con rể trên đài địch, mẹ đã thét lên thất thanh gọi con gái rồi mặt mẹ bỗng trắng bệch, bà lên cơn sốt đột xuất, toàn thân run lên bần bật. Cuối cùng thì bà “ lẩy bẩy ôm cái đài lết ra sau hồi nhà. Bà nhúng cả anh tôi lẫn đại sứ Bân-cơ đang nói oang oang vào chậu nước tiểu”. Ngay sau đó, bà mẹ kêu đứa con trai út mới 17 tuổi lên đường đánh giặc. Bà mẹ không chơi cờ và bị bí cờ; đứa con trai 17 cũng không làm con tốt. Chàng trai còn vị thành niên ấy làm người và hân hoan bước vào cuộc chiến khi biết rằng mình đang thực hiện bổn phận thiêng liêng của con người, chính là lời kêu gọi khẩn thiết của mẹ.

Đúng là một người mẹ nông dân Việt Nam chân chất như củ khoai hạt lúa, yêu nhà yêu nước hơn cả thân mình nhưng phân biệt rất rõ ràng cái yêu cái ghét và thẳng thắn “Chẳng yêu thì nói một điều cho xong”!

Sau 17 năm ốm liệt giường, ngày toàn thắng của dân tộc đến cũng là ngày bà mẹ thấy được trắng đen về người con rể, một nhà tình báo cách mạng vĩ đại, bà thanh thản đi về cõi vĩnh hằng với một vinh danh không có thứ huân chương nào sánh nổi: “ Cả làng Đông đ¬ưa tiễn bà. Không có ai khóc. Tất cả đều ngẩng cao đầu, ung dung bước sau bà. Trên gương mặt của tất cả, ánh lên niềm kiêu hãnh vô bờ bến”.

Trở lại với Na. Mang vào thân chuyện khốn nạn thế, làng xóm người ta tha xé xác nhà mình ra là may,muốn chết mà không chết được. Cái gì đã khiến nàng phải sống? Nguyễn Quang Lập không kể lể dài dòng tình tiết mà chỉ bật lên một tình tiết cực kỳ đắt giá và xúc động. Đó là sự sống hằng đêm của Na: “cứ đến chừng canh ba chị lại mở vali lấy ra cái hộp đuya-ra nhỏ bằng hộp diêm, phía trong có gắn một tấm gương. Không có gì cả trong hộp, ngoài mảnh giấy có nét chữ của anh tôi: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng em hãy vững như kiềng ba chân”. Đó không phải là lời nhắn gửi của anh tôi trước lúc lên đường. Một thương binh cụt chân từ huyện Quảng đã chống nạng suốt ba mươi lăm cây số đến đây đ¬ưa cái hộp này cho chị”. Đó không phải là kỷ vật của anh- Kỷ vật làm gì khi anh đã theo đich!- Mà cái từ “Hãy” đổi từ từ “Vẫn” trong câu ca dao cổ giản dị ra đã có sự mầu nhiệm khiến nàng không chết, không cách gì chết được để cố gắng sống và chờ đợi. Để rồi sau 17 năm, sự đoàn viên vợ chồng màu nhiệm đã đến thật với Na!

Sự màu nhiệm đó phải chăng là tình yêu chân thật của Na với chồng, là sự thấu hiểu đến gan ruột chồng mình là ai?!

Nếu ở phần đầu truyện Na là hình ảnh cô gái đẹp nhất làng Đông ở nhan sắc tuổi thanh xuân thì ở phần cuối truyện, Na là hình ảnh người thiếu phụ đẹp nhất ở nước Việt Nam sau hai cuộc chiến tranh liên tiếp : “Chị tôi áp mặt vào ngực anh khóc lặng lẽ. Và kỳ diệu thay trên mái tóc bạc trắng lạnh giá nh¬ư một khối băng kia vẫn phất phơ một sợi tóc xanh”, một cái đẹp đầy thần kỳ huyền thoại như biết bao chuyện thần thoại đẹp của dân tộc ta.

Từ một tứ thơ trong bài thơ “Vọng trắng” của Trần Anh Thái, Nguyễn Quang Lập đã viết nên một thiên truyện ngắn nhân văn sâu sắc, một thiên tình sử đầy bi tráng và cảm động của một đôi uyên ương mà người chồng là một trong những nhà tình báo vĩ đại của cách mạng. Cái nhân văn sâu sắc của thiên truyện là không đi theo lối mòn ngợi ca sự hy sinh quên mình vì Tổ quốc của những chiến sĩ tình báo Công an Việt Nam mà là câu chuyện về số phận những con người bình dị, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam, dù vấp phải muôn vàn đắng cay tủi nhục vẫn không chịu ngã quỳ, nhẫn nại vươn lên để sống với một khát vọng, dù đó là khát vọng trắng phau của người đàn bà!

Năm 1993 đã có cái nhìn nhân bản ấy, cách viết không lên gân ấy, đáng để gọi là VĂN CHƯƠNG!


NGUYỄN QUANG LẬP Tác giả bài viết
02.09.2009 lúc 8:53 chiều
ba mươi năm cầm bút, bọ thấy trên văn đàn ít ai bình một truyện ngắn công phu tâm huyết như bác. Bọ cảm thấy vui sướng và hãnh diện có được những lời bình vượt qua khuôn khổ một cái còm để trở thành một bài phê bình hoàn chỉnh chất lượng cao như thế này. Cảm ơn bác rất nhiều


CHỢ PHÂN VAI BÒ:

1348e24e665d4f5d8025eb8e5b309247

Bởi: ngườilàngcốm ngày 01.09.2009 
lúc 11:35 sáng

Đây là chợ phân tươi, hoàn toàn không có phân ủ (phân chín) không có phân xanh (phân làm từ các loại lá cây) hay phân hoá học ở các của hàng phân bón ngày nay. Cũng rất ít có phân chuồng, tức là phân lợn, phân gà hay phân trâu bò. Tất cả đều là phân người, dân vùng ngoại thành quanh quê tôi gọi là phân bắc. 

Chợ họp tại địa điểm có tên là Vai Bò ngay bên đường cái quan, chính giữa đoạn đường 1km từ ô Cầu Giấy về làng Vòng. Người dân làng Vòng từ xa xưa chủ yếu là cấy lúa trồng rau và hoa nổi tiếng với kinh thành là hoa lơ (Vòng Tiền và Vòng Trung), cải bắp và hoa huệ (Vòng Sở). Đặc biệt là ở Vòng Hậu có nghề làm cốm từ lâu đời, cốm Vòng được nhân dân đất thành Thăng Long và các vùng miền gần xa ưa chuộng. Nhưng những người bán phân tươi không phải người làng Vòng mà là người ở các làng khác có tập quán đi các nơi, nhất là vào nội thành lấy phân bắc đem về đây bán. Họ không phải là công nhân vệ sinh của nhà nước hay phu “đổi thùng” của nhà thầu Năm Diệm mà là người ở ngoại thành vào lấy trộm phân nên họ thường bị công nhân vệ sinh bắt quang sọt hoặc bị công an phạt tiền khốn khổ lắm. 

Chợ phân Vai Bò họp chừng một giờ đồng hồ từ 3 giờ sáng đến 4 giờ sáng. Người mua phân dùng một cái gắp phân bằng cật tre, trông hơi giống một cái đũa cả sục sâu vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên mũi ngửi để xem phân tốt hay phân xấu. Có sọt phân bị chê là chua, có sọt bị chê là nát nhoét, không đậm. Người bán phân cũng dùng cái gắp ấy ngoáy sục lại vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên ngang tầm mũi mình và cả mũi người mua mà rằng: “Phân ngon thế này mà còn chê à!”. Ngày nào, chợ cũng có đôi chỗ om sòm cãi chửi nhau vì phân giả do người bán tham trộn thêm bùn đất vào phân người.

“Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”. Phân (Bất kể là phân gì) quý như thế đấy! Chợ phân tươi xưa còn có phân chua, phân nhẽo, phân không đậm và cả phân giả nữa. Nhưng tất cả các loại phân ấy đều chỉ là phân xấu, nói theo những người bán phân tươi là “phân không ngon”, có mua phải thì về bón cũng không phá hại lúa má, hoa màu, cây cối của mình. Và để hơn thua thật giả, chửi bới nhau một lúc là xong. Còn phân dởm trong siêu thị phân ngày nay thì mua phải không những bị lừa mất tiền, không biết chửi nhau với ai mà còn bị coi là ngu vì đem về để phá ruộng của mình-  

Nhân chuyện Chợ phân Vai Bò, bỗng nghẹn ngào nhớ lại các chuyến đi thực tế của các nhà văn nhà thơ ở miền Bắc trước đây. Một trong những công việc chính của họ là đào hố phân rồi hằng ngày đi nhặt phân, từ phân người đến phân thú vật, về đổ vào các hố rồi nhặt lá cây bỏ vào, trộn đều, ủ lại cho chúng ngấu kết lại với nhau.

Theo lời kể của cụ Tô Hoài, mỗi buổi sáng, nhà thơ Phùng Quán ở trong xóm đi ra, “gánh đôi quang lồng một, hai thanh tre gắp phân đặt trên mặt sọt.” Một buổi chiều, gánh phân về, “Quán kể nông nỗi đi gắp phân như là đọc một mẩu chuyện trên báo. Các đường ngoắt ngoéo trong xóm trổ ra cổng đồng còn tối đất. Những con trâu con bò ra ruộng làm sớm, thói quen tự nhiên, tới rệ cỏ ven hào nước thì đứng lại ỉa. Đến khi sáng hẳn, trẻ con trong xóm mắt nhắm mắt mở lốc nhốc kéo ra ngồi bĩnh ở đấy. Hai thanh tre của Quán mở ra gắp lên sọt tuốt cả phân trâu phân người. Tìm ra những con đường phân này cũng chẳng phải tài giỏi riêng Quán, mà sáng nào cũng có người nhặt phân từ các ngõ xóm ra cổng đồng, đi muộn có khi hết.”

Nghe cụ Tô Hoài kể, không thể không chua chát nhớ đến câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông: “Trí thức là cục phân”!
   

Cám ơn bác vì cái còm hay. Ấn tượng quá bác NLC ơi! 
“Người mua phân dùng một cái gắp phân bằng cật tre, trông hơi giống một cái đũa cả sục sâu vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên mũi ngửi để xem phân tốt hay phân xấu. Có sọt phân bị chê là chua, có sọt bị chê là nát nhoét, không đậm. Người bán phân cũng dùng cái gắp ấy ngoáy sục lại vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên ngang tầm mũi mình và cả mũi người mua mà rằng: “Phân ngon thế này mà còn chê à!”.
Bởi: meogia ngày 01.09.2009 
lúc 12:28 chiều
 
Thuốc Bắc là thuốc kiểu Hàng Xóm, phân Bắc chắc cũng vậy he Bác NLC
Bởi: Dong ngày 01.09.2009 
lúc 12:53 chiều
 
Cái thứ phân bác NLC nói, theo tôi ủ kỹ bón cho hoa, rau xanh thì không gì sánh bắng (đặc biệt là hoa hồng). Ngày nay mấy anh hút hầm cầu cứ phải tìm cách lén xả xuống kênh, sông. Đầu óc kinh doanh của bà con đâu rồi nhỉ hay là xấu hổ?
o
Bởi: Hồng Chương ngày 01.09.2009 
lúc 1:22 chiều

 
@anh Hồng CHương: anh đặt câu hỏi đúng đấy, em cũng nghĩ tại sao các nhà khoa học của chúng ta không nghiên cứu tận dụng nguồn ni hè?
o
Bởi: Ha Linh ngày 01.09.2009 
lúc 2:04 chiều

  Bởi Nguyễn Quang Lập:
úa chầu cái chợ phân bác tả hay quá hè, tiếc ngày xưa bọ không biết để đi coi, vô cùng tiếc, nếu không sẽ có một entry thú vị rồi

TÁC GIẢ “To ĐLINH MẤY DÒNG”

Xã Cổ Nhuế (nay thuộc huyện Từ Liêm) xa xưa là làng Cổ Nhuế, tên Nôm là Kẻ Noi . Theo các nguồn tư liệu, lúc đầu, làng Noi ở khu vực Bệnh viên E hiện nay, tên là Cổ Nhuế Hoàng. Về sau, làng phát triển sang phía Đông, lập thêm ba làng mới là Cổ Nhuế Đống, Cổ Nhuế Trù và Cổ Nhuế Viên. Cổ Nhuế Hoàng cũng như các làng Cổ Nhuế khác đều là các làng nông nghiệp, có đồng ruộng rộng, bằng phẳng, màu mỡ. Nhân dân cần cù làm ăn, có kinh nghiệm thâm canh. Từ lâu, dân làng có tập quán đi các nơi, nhất là vào nội thành lấy phân bắc về ủ cho hoai để bón ruộng, nên lúa và hoa màu ở đây rất tốt. Xưa có câu: “ Đào Nhật Tân, phân Cổ Nhuế “ là nói về nghề này.
Còn cái chợ phân thì ở bên đường từ Cầu Giấy đi Sơn Tây, giữa đoạn 1km từ Cầu Giấy về làng Vòng, có tên là Vai Bò. Bên trái đường là thôn Vòng Trung có nghề hàng xáo, bên phải là thôn Vòng Tiền có nghề trồng rau và hoa; đi gần 1km nữa thì mới tới thôn Vòng Hậu nổi tiếng cốm Vòng.
Chợ phân ở Vai Bò mới tiện cho những người đi lấy phân tươi từ thành phố về bán và cũng tiện cho dân các làng ở ô Cầu Giấy mua. 

Cảm ơn Đlinh đã có ý tìm hiểu
Bởi: ngườilàngcốm ngày 01.09.2009 
lúc 7:23 chiều

 
To bác Người Làng Cốm@…
“ Đào Nhật Tân, phân Cổ Nhuế “
*****

Bác “ôn tập” lịch sử làng nghề Từ Liêm cho Đling@… là em nhớ kỷ niệm đi chơi chợ… phân năm cuối thập kỷ 1970s.
Hồi đó gần giáp Tết, sau ca trực đêm ở BV Saint Paul, em và bạn đạp xe ra mấy làng hoa ngoại thành ngắm hoa đào, hoa cải, vườn bắp su vào sáng sớm sương chưa tan. Trên đường ngược xuôi xe đạp thồ của bà con lao động chở rau, hoa vô các chợ nội thành và ngược lại cũng có những xe đạp thồ hai bên hai thùng nhôm (hoặc kẽm) chở phân về các cánh đồng rau, hoa….
Khi ra về, thằng bạn em nảy ra ý định đi chơi chợ… phân. Cứ ngược dòng các xe đạp thồ với hai thùng đậy kín là đến chợ…phân. Hồi này chợ phân dạt ra đường Láng Thượng khi sông Tô lịch mới nạo vét lần đầu.
Hồi đó, những phố cổ Hà Nội hay dọc phố Huế, Bà Triệu, Lò Đúc các gia đình thường có NVS bằng… thùng. Phân được thu gom đêm về sáng bỡi lực lượng “xe thồ chuyên nghiệp” và tập kết về chợ phân.
Vào “trung tâm” chợ… là em phải đeo khẩu trang… y tế (luôn có trong túi áo blouse). Khi bạn em hỏi một thanh niên đang ăn bữa sáng với ổ bánh mỹ bên cạnh chiếc xe… hàng của mình: hôm nay bao nhiêu một thùng đấy ?
- “Dạ bá cáo bác hai chục. Đảm bảo hàng của em nấy từ các phố Tây. Đặc quánh thế lày, mời bác xem lày…”
Em không dám vào gần, từ xa nhìn thấy tay thanh niên vừa khuấy thùng… cho bạn em xem vừa nói vừa nhai bánh mỳ… Kinh !
Sáng đó em nhường luôn tiêu chuẩn nửa ổ bánh mỳ sinh viên cho bạn em luôn !
He he…
….
Bây chừ các làng Rau dọc Láng Thượng, các “làng lúa làng hoa” ngoại vi Hà Nội,… chắc không còn nữa bác nhỉ ?

ABởi: ngườilàngcốm ngày 19.09.2009 
lúc 2:56 chiều

  KÍNH   BÁO Chủ nhân trang blog Bị ốm. Vì Vậy trang NgườiLàngCốm.BlogSpot xin tạm đóng cửa. Xin kính báo cùng toàn thể Độc giả xa gần !!!  ...