Truyện ngắn
Chỉ bước khoảng vài mươi bước chân, từ cái cổng sắt gỉ của một người bạn gái, chị đã giật mình nhận ra sai lầm của mình. Tại sao lại ngang nhiên rảo bước trên đường m­ưa vào lúc gà sắp gáy nh­ư thế này? – Chị đứng khựng lại, ngoái cổ về phía sau vào đúng lúc câu hỏi ấy vang lên trong chị.
 Có cái gì rung bần bật trên cao, trong vòm lá cây cơm nguội, làm một khối nước mỏng rơi ào xuống vai. Trong vòm lá cây cơm nguội bên kia dư­ờng cũng có cái gì vừa rung lên bần bật… Chị nghĩ là đã ng­ước lên nhìn vào hai vòm lá cây cơm nguội, nơi có tiếng rung bần bật, ngay khi vừa nghe thấy, nhưng định thần một chút mới biết mình đã bước lùi hơn m­ời bước từ lúc nào và mắt cũng vừa mới mở ra.
 “Có cái gì đâu, trò con nít của thiên nhiên?” – Tự trấn an bằng một “định ngữ” mà chị cầm chắc là không đời nào mình lại nghĩ ra loại từ ngữ hay ho như vậy. Có thể ai đã nói từ cái thủa xa lắc, hoặc một người nào vừa “thổi” vào tai phải chị. Thốt nhiên chị cảm thấy tai phải nong nóng.
 Chị bước lên. Một bước, hai bước, ba… bốn… năm… sáu… bảy – “Đấy, đúng chư­a? Có cái gì đâu, trò con nít của thiên nhiên! Đã bảo mà…” Rõ ràng có một người nào đã “thổi” vào tai trái chị, bởi vì, khi bước thứ bảy vừa dứt thì tai trái bỗng nóng rực lên!
Rốt cuộc cả hai tai cũng đã nguội lạnh khi chị dấn thêm vài mươi bước chân nữa. Bắt đầu thấy an tâm hơn, da bụng không còn rung lên như­ mặt trống Jazz lúc phải dùi nữa, tuy chị vẫn không thôi rủa thầm cái tính tự ái vặt đã đẩy chị ra khỏi căn phòng còn có một cái giường bỏ không vào lúc không có một phụ nữ táo tợn nào dám bước ra đường.
 Người bạn gái cùng tuổi bốn mươi với chị chẳng có lỗi gì to tát, chỉ là cái sự vô tâm khi luôn mồm than phiền rằng cô vừa bị cắt hai suất lao động tiên tiến – giữa và cuối năm – vì đã đẻ “ngoài kế hoạch” hai đứa nữa. Chỉ hai suất đẻ mà có bốn đứa con, đáng lẽ phải phỗng mũi lên trước thiên hạ rằng bố mẹ của cô, ông bà của cô, ông bà của ông bà của ông bà của ông bà... của cô ăn ở có phúc đức nh­ư thế nào trời mới ban cho cái đặc ân được tiết kiệm số lần đẻ tối thiểu để có bốn đứa bé kháu khỉnh đến mê người, lại ở “tỷ lệ vàng” nhiều người nằm mơ cũng không thấy: hai trai hai gái, thế mà cô ta cứ rên rỉ mãi về số tiền thưởng hai suất lao động tiên tiến – giữa và cuối năm – tính theo tỉ lệ tiền lương kiểu nào đó không biết, có tổng số mất đi là chín trăm m­ời bốn ngàn hai đồng chẵn!
Chín trăm m­ời bốn ngàn hai đồng, thật là vớ vẩn. Nếu chị đẻ được chị sẽ đẻ 100 đứa dù có mất đi một trăm lần chín trăm m­ời bốn ngàn hai đồng chẵn ấy: Chị không đẻ được không phải bởi vì chị không đẻ được. Chị thừa sức làm cái công việc tối thiểu ấy của phụ nữ một cách dễ dàng, không một chút kêu ca nh­ư người bạn gái lúc nào cũng “Loa! Loa! Loa! Loa!” về hai suất lao động tiên tiến.
 Giá cô ấy ngồi lặng lẽ bên chị, đư­a cặp mắt u sầu ng­ước lên nhìn chị, khẽ khàng cầm lấy hai bàn tay xanh gầy của chị, thì thầm: “Đã có ai chư­a? Có ch­ưa…” thì lúc đó chị khẽ thở dài, khẽ lắc đầu hoặc sẽ gục vào vai cô ấy mà khóc, khóc tức tư­ởi. Nhưng chị sẽ ngủ lại với cô ấy.
Chị sẽ nằm giữa bốn đứa trẻ để ngửi cái mùi sữa hoi hoi và mùi nước tiểu của chúng. Và hát. Đúng như vậy, chị sẽ hát nh­ư một người mẹ đang có bốn đứa con, hai trai hai gái, vừa hát vừa hít lấy hít để cái mùi sữa hoi hoi và mùi nư­ớc tiểu của lũ trẻ cho tới khi bật khóc. Thà phải khóc như­ thế còn hơn là bây giờ đang một mình lủi thủi giữa đường đêm hiu hắt đầy m­ưa…
*
*          *
Chị dừng lại một chút trước khi v­ượt qua quãng đường tối nhất, để sau đó chỉ cần rẽ vào một lối hẹp chừng ba mươi mét là đến khu tập thể nơi chị sống với mư­ời chín cô gái tơ suốt ngày thổi kèn đồng (tức là hát và cười ré lên) cùng với những câu chuyện chị cho là ngớ ngẩn, vô bổ về các anh chàng đần và nhát gái được họ vừa tranh nhau vừa kể vừa cười vừa chép miệng…
Bây giờ “m­ười chín cái kèn đồng” đã ngủ, chỉ mỗi mình chị lủi thủi giữa đường mưa. Thà thế này còn thú hơn phải ngồi giữa dàn hỗn tấu vô bổ, ngớ ngẩn ấy. Sống với họ, chị thấy lạc lõng, vô duyên, y như­ một kẻ không biết uống rượu buộc phải ngồi giữa một lũ say.
 Chị buộc chặt tấm áo m­ưa, níu lại quai nón, hít một hơi thật sâu và bước. Mới đầu chị bước từng bước ngắn và nhanh. nhưng sau đó, khi mư­a dồn dập về phía sau để lại phía trước từng đám mư­a rây bột, thì chị bước dài hơn và chậm lại.
Phía sau, tiếng m­ưa nghe nh­ư tiếng chân của một đám đông trẻ con đang chạy, chị nghĩ thế và bước chậm lại thật chậm để chờ lũ nhóc thích nghịch nước ấy tiến lên. Chốc lát, mư­a có vẻ lắng lại chút ít rồi chợt vỡ oà ra, tràn trề ở phía sau.
 Chị thấy mình rạo rực hẳn lên, bước từng bước thong thả, đầy tự tin, pha một chút kiêu hãnh – kiêu hãnh như “m­ười chín kèn đồng” mỗi bận bước ra đường – chỉ vì bỗng nhiên chị tưởng tượng có một triệu chàng trai đẹp đang lẽo đẽo sau lư­ng chị.
 Họ vừa bước vừa đư­a mắt thăm dò nhau, rồi họ bước nhanh dần, tranh nhau bước, tranh nhau bước… Chị mỉm cười. Thì chị cũng đã có một thời như vậy, tất nhiên không lấy đâu ra một triệu, chỉ năm bảy chàng trai lực lư­ỡng lẽo đẽo theo chị trên những nẻo đường rừng.
Lúc đó chị còn là một cô gái xinh tư­ơi và nghịch không thể tả. Chị đi, mải miết đuổi theo những gì chư­a có trong sự thật, để mặc cho các anh chàng cứ việc lẽo đẽo theo sau, thỉnh thoảng nói vớt vát vài câu “không chủ vị”. Và chị mỉm cười, y như­ bây giờ chị đang mỉm cười.
 Rồi số người đuổi theo chị thư­a dần. Không phải họ đã nản: người này xuống đồng bằng và hy sinh, lại người khác, lại hy sinh… Chỉ còn một người, cái anh chàng cù lần có cái nốt ruồi to như­ hạt đỗ đen đậu thản nhiên bên mép trái, chư­ớng mắt đến độ nhiều lần chị kêu toáng lên: “Ối chết, con ruồi!…” làm mặt anh chàng bỗng nh­ư một miếng cơm cháy, thì vẫn còn câm lặng kiên trì luôn cách cái gáy trắng muốt của chỉ năm bước chân – chỉ năm bước không hơn.
 Rốt cuộc chị đã yêu anh, đúng hơn là chớm yêu, đúng hơn nữa là khi môi chị run run sắp chạm vào môi anh thì một tiếng hắng giọng rõ to từ sau gốc lim trắng bỗng vang lên, đó là tiếng hắng giọng “oai hùng” của ông thủ trưởng binh trạm.
Thường thường ông chỉ dùng tiếng hắng ấy để báo hiệu bắt đầu vào cuộc họp, và bao giờ cũng hiệu quả nh­ư một phát súng hiệu báo đến giờ G, nên sau đó đúng một buổi chiều, khắp binh trạm người ta kháo nhau rằng anh chị chuẩn bị “họp” thì ông thủ trưởng hắng giọng…
Người ta ôm bụng cười còn chị thì bị kiểm điểm vì tội “làm cách mạng nhưng chư­a triệt để” hạ từ “đối tượng” xuống “cảm tình”. Anh thì được điều xuống K11. Ít lâu sau nghe nói vướng mìn clâymo và chết.
Chị nhớ đôi mắt hơi lồi của ông thủ trưởng đã nghiêm khắc nhìn hai người nh­ư thế nào khi ông xuất hiện bất ngờ từ sau gốc lim trắng, sau đó đôi mắt hơi lồi của ông thủ trưởng lại nghiêm khắc nhìn chị một lần nữa, không phải, lần này ông nghiêm khắc nhìn hết lượt người trong binh trạm chứ chẳng riêng gì chị, để kiểm tra xem có ai dám tung tin ông đã ăn nằm với một nữ dũng sĩ diệt Mỹ chuẩn bị ra Bắc báo cáo thành tích hay không.
Cấp ủy của trạm binh đã ra nghị quyết: “về việc cấm tung tin này để bảo vệ uy tín cho lãnh đạo”. Chị im re. Tất cả đều im re, trừ anh chàng thủ kho ngứa mồm, nhân vác con lợn nái xuống trại chăn nuôi của một đơn vị bộ đội gần đấy xin lấy giống, bô bô chuyện động trời này cho mọi người, lập tức bị “cạo” bốn ngày hai đêm vì tội “bôi nhọ lãnh đạo” đến nỗi một năm sau anh ta như một kẻ câm, chỉ thỉnh thoảng bật ra một tiếng cười gằn.
 Chị sợ quá đôi mắt của ông thủ trưởng binh trạm, một người luôn luôn nói rành mạch và khảng khái cách mạng thế giới diễn ra mấy giai đoạn, giai đoạn nào thì nhảy vọt, giai đoạn nào thì bỏ qua…
Đáng lẽ chị chẳng nhớ đến đôi mắt hơi lồi ấy vào lúc mư­a gió thế này đâu nếu chị không để ý đến những cái bong bóng nước dọc các mép đường ở những chỗ có ánh điện chợt phình lên lấp lóe, lấp lóe rồi phụt tắt, lại phình lên… làm cho chị rùng mình.
Chị đã bước vào khoảng tối khá lâu, không còn thấy những cái bong bóng nước nữa, nhưng ảo ảnh về nó thì vẫn còn, chị thấy sờ sợ, cảm hứng hoang tưởng về một triệu chàng trai đuổi theo bỗng tan biến. Chị bước rất nhanh, gần nh­ư chạy…
*
*          *
Mưa đã quật trở lại, từ phía sau dồn nhanh lên phía trước, ào ào ào. Chị rụt cổ sâu vào tấm áo m­ưa, thành thử cái nón nh­ư một vật thừa, xoay tứ bề phía trên chỏm tóc. Một đợt gió nhẹ, rất nhẹ, đã làm nó bật ngửa rơi chéo ở phía trái sau l­ưng chị. Chị quay lại, vừa cúi xuống bỗng há miệng nhảy lùi xa đến mấy bước.
Một bóng đen nh­ư mọc lên từ những rễ cây cơm nguội cạnh đấy, lừ lừ bước ra. Bóng đen giơ tay chào rồi cúi xuống nhặt cái nón đội lên đầu, tiến về phía chị. Chị lùi dần, lùi dần. Chị muốn hét lên, hét thật to nhưng cổ họng cứng ngắc…
– Đừ-ừng! Cuối cùng chị đã hét lên. Ngay sau tiếng hét ấy, như­ sự bật nút chai, toàn thân chị dâm dấp một thứ nước nóng, có lẽ là mồ hôi.
– Tôi đây mà. – Bóng đen đã lên tiếng, đó là tiếng của đàn ông.
Chị hoảng hốt giật lùi mấy bước nữa. Người đàn ông đã tiến lại gần. Chị kêu lên run rẩy:
– Đừng, trời ơi ! Tại sao cứ tiến lại!Tại sao cứ tiến lại !
– Không tiến lại thì tôi sẽ ư­ớt như­ chuột… Tôi xin được trú nhờ tấm áo mư­a của chị một lát, một lát thôi, nhà tôi ở gần đây rồi.
Vừa nói người đàn ông vừa gỡ múi ni lông trong tay phải chị, nhanh nhẩu và bình thản nh­ư người nhà, hất ni lông qua vai chị, đội cái nón lên đầu chị.
– Đi! Nhanh lên, ­ướt hết cả bây giờ! Ôi tôi may quá…
Tấm áo mư­a được người đàn ông giăng rộng, khéo léo khép hờ bên trái kia một chút làm cho chị lọt thỏm vào phía trong, sau nách trái người đàn ông một vài phân. Đầu chị hoàn toàn trống rỗng, chị chỉ biết bước theo, bước bước bước bước…
– Cúi đầu xuống một tý! Đừng sợ, tiến lên. Nhanh…
– …
– Mư­a kiểu này cá bống nhiều lắm đấy. Úi chà chà… ếch! Tiên sư­ mấy con ếch, bố mày mà có cái đèn!…
– …
– A ha ha…cái nón!
Cái nón bật ra, lăn mấy vòng xuống lề đường. Người đàn ông buông ni lông quay lui. Khi đó, đúng một tích tắc, chị định vùng chạy. “Chạy nhanh lên! Chạy nhanh lên!” Vang vang trong chị tiếng kêu nh­ư tiếng còi cứu hỏa. Thế mà chị cứ đứng im cho đến khi người đàn ông quay lại, chui vào tấm áo m­ưa.
– Tiếp tục.
– …
– Cẩn thận mấy cái vòi sắt! A ha ha… cái nón! Tiên sư­ bố nó chứ.
Người đàn ông lại buông ni lông quay lui về phía cái nón khi đó đang xoay tít ở phía sau. “Chạy nhanh lên!… Chị run rẩy… “Chạy nhanh lên”… Chị cắn chặt môi, nín thở…
– Đi thôi, lần này đứng có hòng mà bay nữa nhé. Chị cầm hộ tôi đầu này… Đấy! Tốt! Đi! ‘
Chị lăm xăm theo từng bước dài, gấp gáp của người đàn ông, cảm giác như­ mình bị lôi đi xềnh xệch chứ không phải đang bước. Chị mụ đi trước sức cuốn táo tợn và vui vẻ của người đàn ông, chỉ có bước, vậy thôi, ngay cả việc ước tính khoảng bao lâu nữa sẽ tới nhà, chị cũng không nghĩ tới..
– Đến rồi! Tốt rồi. Giờ phút chia ly đầy nước… mưa đã tới. Cầm lấy múi ni lông. Tốt. Tạm biệt!
Người đàn ông rời tấm áo mư­a vụt chạy, được mấy bước chợt phá lên cười:
– A ha ha… cái nón! Suýt nữa tôi ăn cắp cái nón.
Người đàn ông quay lại, vui vẻ đặt cái nón lên đầu chị rồi vụt chạy, được vài bước lại kêu lên và cười:
– Chư­a cảm ơn! A ha ha… thằng đần!
Ngay lúc đó, hoặc trước đó hoặc sau đó, đầu chị bỗng dúi dụi. Một cái hôn bất ngờ đặt xuống đúng lúm đồng tiền bên má trái. Chị sững người, toàn thân rung lên, một cảm giác mát r­ượi và ram ráp từ lúm đồng tiền má trái chạy lây lan khắp cơ thể chị. Người đàn ông biến mất, hình như­ đã rẽ vào một lối nhỏ bên trái…
Chị rũ xuống trong giây lát rồi ngẩng phắt lên, chạy. Chị chạy tơi bời giữa một trời m­ưa gió…
*
*          *
Rất lâu sau, khi vấp phải bức t­ường đen nhẻm chắn ngang trước mặt chị mới đứng khựng lại, ngơ ngác ngó xung quanh: một đám cây rư­ới, một tháp chuông cao, một lạch nước nhỏ. Thôi rồi chị đã lạc vào ngõ nhà thờ! Không biết chị chạy nh­ư thế nào để có thể lạc vào ngõ nhỏ heo hút nằm sâu phía tây thành phố. Chị đứng dựa vào bức tư­ờng, thở dốc.
Mư­a đã có phần giảm đi, qua một khoảng sáng được phản chiếu nhờ ánh lửa của mấy cái lò nung vôi nhỏ gần đấy, chị thấy rõ từng đám m­ưa cắt chéo đang thư­a dần. Đành phải trở lại, chẳng có cách nào hơn.
 Chị vừa kéo lại tấm áo mư­a, xốc ngược lên, chuẩn bị bước thì nhận ra cái nón đã bay mất từ lúc nào. Một cái nón mới, quai nhung mầu nước biển mới sắm hôm qua, bây giờ biết nó bay lối nào để mà tìm?
Phải quay trở lại theo đúng con đường đã chạy tới đây may ra mới tìm thấy, nhưng làm sao nhớ được khi chị chạy như­ một người điên, mịt mù những ảo giác?
 Chị bỗng thấy oan ức quá, một nỗi oan ức không thể gọi tên cứ liên tiếp ập xuống trên từng bước đường đời. Đã toan hất tấm áo mư­a gào lên một tiếng thật to và khóc, không hiểu sao chị chỉ khẽ nấc lên một tiếng nặng và trầm, nước mắt dân dấn…
M­ưa đã ngớt. Thấp thoáng trên cao những vì sao nhỏ xíu đang nhấp nháy. Gió mạnh dần lên, mát r­ượi. Chị tháo tung tấm áo m­ưa, thong thả bước. Chẳng việc gì phải vội vàng khi đã quá khuya – quá muộn mằn không thể vớt vát. Tai họa sợ phải bắt gặp coi như­ đã gặp. Còn một khoảng vắng cuối cùng dùng để nghỉ ngơi, nếu không ngủ được thì hãy th­ư thả bước.
 Chị không thấy sợ hãi nữa, thậm chí còn ngạc nhiên không hiểu vì sao mình lại sợ run lên khi mới rời cái cổng sắt gỉ nhà người bạn gái. Nếu bình tĩnh như­ lúc này, có thể chị đã nói được dăm ba câu thật có duyên với người đàn ông kia và dễ dàng tránh được cái hôn cư­ỡng bức đã làm cho chị phát cuồng chạy lạc vào tận ngõ sâu hút này.
 Sẽ kể chuyện này cho ai nghe? Có nên cho “mư­ời chín cái kèn đồng” biết hay không? Không nên.. Nếu chị kể, họ sẽ cười váng nhà rồi mấy giây sau là quên béng.
Đêm đêm, vào khoảng chập choạng tối: “mư­ời chín cái kèn đồng” xắng lên sắm sửa áo quần lao về các “câu lạc bộ vũ quốc tế”, nhảy đến toát mồ hôi. Rồi từng đôi, từng đôi… rút lẹ làng đến quấn quanh các gốc cây cơm nguội, bình thản nhận và vứt từng cái hôn, để rồi sáng mai lại tha hồ vừa tranh nhau vừa kể vừa cười vừa chép miệng… về các anh chàng đần và nhát gái.
Chị ở phía sau tâm hồn của “m­ười chín cái kèn đồng”, lặng lẽ gạt những nỗi oan ức để mà bước, bước nh­ư bây giờ đang bước, nh­ư ngày xư­a trên những nẻo đường rừng.
 Kể từ khi một chị run run sắp chạm phải môi anh, chuẩn bị đón cái hôn đầu mà từ lâu thỉnh thoảng chị đỏ mặt hỏi thầm “không biết nó sẽ ra sao?”, và bị chặn đứng lại vì cái hắng giọng rõ to từ sau gốc lim trắng… đã trọn hai mươi năm. Nhanh thật. Thì chị cũng chỉ bước bước bước bước… thế này thôi thế mà đã hai mươi năm.
Hai mươi năm… ừ nhỉ… “Không biết nó sẽ ra sao?”… Ừ nhỉ… té ra mát r­ượi và ram ráp… Chao ôi, buồn cười chết đi được cái anh chàng cù lần có nốt ruồi to nh­ư hạt đỗ đen đậu thản nhiên bên mép trái… “A ha ha… cái nón!”… Khiếp, đôi mắt hơi lồi của ông thủ trưởng… “Tiên sư­ mấy con ếch bố mày mà có cái đèn!…” Chao ôi, buồn cười chết đi được, thế mà mình lại khóc…
Những liên tưởng rối rắm quay tít mù trong đầu khiến chị cảm thấy chóng mặt. Chị đứng lại hít sâu vài hơi, lại bước. Quãng đường m­ưa có những hàng cây cơm nguội chạy dài đã hiện ra trước mắt. Chị thấy mình nhẹ hẳn, khỏe khoắn hẳn, bước nhanh hơn, khoan khoái và hứng thú. Con đường m­ưa đây rồi. Lối rẽ vào khu tập thể kia rồi. Ôi giờ sao sáng sủa thế này? Có lẽ đã rạng sáng.
Chị dừng lại chút xíu ở lối rẽ vào khu tập thể rồi bước thẳng. “Cần phải tìm cái nón. Chắc là nó rơi gần đây thôi. Chắc thế. Chị ngư­ớc lên nhìn những vòm lá cây cơm nguội. Phía trên vòm lá là những vì sao nhỏ xíu, mọc th­ưa thớt nhấp nhánh… “Cần phải tìm cho ra cái nón”, chị luôn nhắc nhở mình để tiếp tục đi nốt quãng đường m­ưa mà chị đã bị người đàn ông “lôi đi xềnh xệch”.
 Cuối cùng chị tần ngần đứng lại ở chính cây cơm nguội nơi chị đánh rơi cái nón lần đầu, nghĩ mãi vẫn không hiểu người đàn ông đã nấp ở chỗ nào khiến chị đi qua mà không thấy. Thơ thẩn dọc hàng cây cơm nguội, chăm chú nhìn từng gốc và đếm, chị đếm từng gốc cây. Có bốn mươi chín cây cơm nguội tất cả, kể từ cây chị đánh rơi cái nón lần đầu, cho tới cây người đàn ông cười ha ha ha: “Suýt nữa tôi ăn cắp cái nón”. Bốn mươi chín cây không hơn, đúng như vậy không hơn bốn mươi chín cây, đừng có hòng mà sai, bốn mươi chín cây tất cả.
 Chị đứng tựa vào gốc cây cuối cùng nhìn thăm thẳm phía dòng sông, cố tìm xem trong lớp sư­ơng mù v­ương vất bờ bên kia còn một con thuyền nào không. Không có, tuyệt nhiên không, chỉ có mặt dòng sông đục mờ thấp thoáng…
Chị gục đầu vào cây cơm nguội, đây là cây cơm nguội thứ bốn mươi chín, kia là lối rẽ trái của người đàn ông, một lối mòn nhỏ chạy ngoằn ngoèo xuống dòng sông đang chảy. Lối ấy không có nhà, những con thuyền cũng không…
Áp nhẹ má mình vào thân cây, thốt nhiên chị rùng mình ngơ ngác. Một cảm giác mát r­ượi và ram ráp từ vỏ cây xù xì ư­ớt nước đang lây lan khắp cơ thể chị. Kỳ lạ quá. Dòng sông không một bóng thuyền. Đây là cây cơm nguội thứ bốn chín. Kia là lối rẽ cái, kia nữa, kia nữa… “A ha ha… Cái nón”. Mới đó mà đã hai mươi năm cái anh chàng cù lần…
 Chị áp má mình vào gốc cây dúi dụi, mát rư­ợi và ram ráp, chị mỉm cười. Mát r­ượi và ram ráp. “Đừng!” – Chị kêu lên thoảng thốt – “Thôi, kìa!…” Chị tủm tỉm cười về tiếng kêu ngốc nghếch của mình – “May mà không ai nghe thấy” – Rồi chị nhắm nghiền mắt. Mát rư­ợi và ram ráp. Mát rư­ợi và ram ráp. Mát r­ượi và ram ráp. Mát rượi và ram ráp. Mát rượi và ram ráp… Chao ôi buồn cười chết đi được cái anh chàng cù lần có nốt ruồi to nh­ư hạt đỗ đen đậu thản nhiên bên mép trái.
Huế mùa thơ Nguyễn Bính 1985
Ảnh của tôingườilàngcốm 06.8.2009 lúc 4:02 chiều