Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2017


KHÁT VỌNG CỦA MỘT NGƯỜI CHA
QUÁ NỬA ĐỜI CHINH CHIẾN TRONG TRUYÊN

TIẾNG LỤC LẠC




Tiếng lục lạc


Truyện ngắn
Quá nửa đời người anh chị mới gặp nhau. Âu đó cũng là chuyện thường tình. Sau hai mươi mốt phát đại bác vang trời báo tin ngày toàn thắng, có hàng ngàn cặp vợ chồng cách biệt hàng chục năm đã tìm lại nhau. Chồng Bắc vợ Nam, chồng vợ trong ngoài song sắt nhà tù Mỹ – Ngụy, trên rừng d­ưới biển… ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Thế là may mắn lắm rồi, còn bao nhiêu cặp vợ chồng cách nhau một thước đất mà gọi hoài có nghe tiếng nhau đâu!
Anh tìm chị ở Nha Trang, không có, ở Phan Thiết không có. Ra Đà Nẵng, mất mười ngày long đong, tất tả ngược xuôi thì gặp chị ở khu tập thể Ban quân quản phường Minh Hiếu. Chị đang đứng giữa sân, tay ôm một đứa bé lên hai. Hình như­ chị đang nói gì với nó.
Anh đứng sững lại ở cổng, ngực nh­ư bị kim châm hỏa đập mạnh. Ngày anh chị xa nhau hai người nào đã có con…
Nhưng anh đã bước lên – từng bước chậm và chắc, “Tiến lên đi, không có gì đáng sợ cả” đó là khẩu hiệu của riêng anh suốt ba mươi sáu năm mặc áo lính. Chị chưa nhận ra anh- “Lại một ông nào đến ban quân quản đề nghị, hợp đồng, trách móc, kiện cáo chi đây”. Anh thấy chị rõ lắm. Chao ôi, chị vẫn trẻ, trắng xanh thế kia.
-Lành! – Anh kêu khẽ.
Chị mở to mắt nhìn. Chị lúng túng đặt đứa bé xuống đất, vừa sửa lại mái tóc vừa nhìn anh chằm chằm. Anh dừng lại, cúi xuống sửa lại quai dép. “Khỉ! Tại sao mình lại làm cái trò này nhỉ?” – Anh ngước lên.
– Ơ! Trời!
Chị nhận ra anh, kêu lên và đứng ôm mặt khóc. Anh chạy bổ tới, dang rộng tay ôm ghì lấy chị. Chị bỗng giật mình đẩy mạnh anh ra. Anh kinh ngạc, ngẩn ngơ… Chị ngẩng lên: “Ơ, chồng mình kia mà, chồng mình đó chớ ai!”. Thì ra đó là phản ứng tự vệ bản năng của chị – hai mươi mốt năm ròng có ai ôm ấp chị đâu!
Chị sà vào ngực anh nấc lên: “Anh ơi!’ Sao lâu…thế?…” Ngày chia tay anh hứa với chị chỉ hai năm là gặp nhau thôi mà…
Anh đưa chị về khu gia binh s­ư đoàn. Anh là đại tá tham mưu trưởng sư­ đoàn. Còn chị, ròng rã hai mươi mốt năm xa anh, chì vẫn là một cấp dưỡng của các binh trạm 17, 26, 34… Tin anh tìm được chị chỉ một ngày sau tất cả cán bộ, chiến sĩ trong sư­ đoàn đều biết đến chúc mừng.
 Sư­ trưởng Hùng, người đã cùng anh chiến đấu mười năm nay, đến chơi liên tục chín mười tối liền ông không giấu diếm tình cảm đặc biệt của mình đối với vợ chồng người cán bộ cấp dưới này. Một lần, ngần ngừ mãi, ông hỏi anh: “Hỏi thực, chị vẫn còn có thể… có con chứ?”. Anh mỉm cười: “Còn anh ạ. Cũng lạnhà tôi đã bốn sáu tuổi rồi!”. Sư trưởng nắm hai bả vai anh lắc lắc: “Tốt quá? Tốt quá!”
Chị vẫn còn sinh nở được nhưng yếu sức lắm rồi.
Mư­ời sáu năm ở rừng chị nhiễm bệnh sốt rét kinh niên. Da chị xanh nhọt, tóc rụng nhiều, vàng ợt. Đêm đêm, anh ôm chị vào lòng. Chị lắng tai nghe nhịp tim anh còn khỏe không. Anh cũng đã già rồi, năm nay đã năm bảy tuổi chứ ít đâu.
 Rất nhiều lần chị ngước lên, thấy kề sát mình khuôn mặt già nua của anh, những nốt sần của tuổi già cùng với mồ hôi cộm lên… .Chị ôm anh, sờ thấy da lưng anh trơn khô – những lớp tế bào chết ngày mỗi dày thêm. Chị thở dài, chỉ một năm nữa, nếu anh chị không có con, coi như­ hết. Tuổi sinh nở của phụ nữ mấy ai tới được tuổi năm mươi!
Sáu tháng trôi qua, vẫn chẳng có dấu hiệu gì báo cho anh chị rằng sẽ có một đứa con. Anh mỏi mệt nhìn chị mỏng như­ tờ giấy, ngủ khó nhọc. Một đôi lần: chị kêu chóng mặt, buồn nôn. Và nôn thật. Nôn thốc tháo. Anh cuống lên, nhưng cũng khấp khởi mừng thầm…
-Không phải đâu anh ạ. – Chị buồn rầu nói: – Em đã sáu lần ngộ độc chất độc hóa học của Mỹ thả dạo em còn ở “xanh”, từ đó em vẫn hay bị thế này!
Cổ họng anh nghẹn tắc.
Sư trư­ởng Hùng vẫn đến thăm anh chị thư­ờng xuyên. Ông hay nói về những bài thuốc bắc “kéo dài tuổi trẻ, hạn chế tuổi già”. Ông tự tay đánh xe ra viện 17 mời trung tá bác sĩ Lê Giàu, bạn chiến đấu của ông thời kháng Pháp, một chuyên gia có tiếng về khoa sản, vào khám bệnh cho chị.
Bác sĩ Giàu là một người hiền lành, đa cảm. Nghe sư trưởng kể lại hoàn cảnh của anh chị, ông vui vẻ nhận làm một “bác sĩ riêng” cho chị. Ông tỉ mỉ kê đơn tất cả các loại thuốc có thể có trong thành phố này để chị uống, gia tăng thêm sức khỏe. Anh cầm thư­ giới thiệu và đơn thuốc của bác sĩ đi lùng khắp nơi và kiếm được không thiếu một thứ thuốc gì trong đơn kê, kể cả những thứ thuốc quý hiếm nhất.
Đêm đêm, anh vẫn ôm chị vào lòng. Mỗi đêm trôi qua chị càng thấy sự bất lực của hai người trước hy vọng của mình. Có đêm chị đã để tay lên mũi anh, cố tình đánh thức anh dậy, rồi chị lại nằm ôm anh khóc. Chị đâu nỡ đày đọa anh như­ thế nếu trước khi chia tay anh kịp để lại cho chị một dứa con.
Một đứa con! Thiếu nó mà nỗi nhớ thương xa xót của chị về anh suốt bao nhiêu năm đã tăng lên gấp bội. Những ngày ở rừng, cứ nghe tin có một đoàn cán binh nào sắp đi qua là chị lại thấp thỏm mong chờ. Mong chờ và ngồi khóc với bếp lửa rừng.
Có một lần, dạo chị còn cấp dưỡng ở binh trạm 26, nghe tin anh đang nghỉ chân ở binh trạm 34, chị gói cơm, một mình cắt rừng, đi suốt hai ngày đêm. Đến nơi chị kiệt sức và xỉu đi vì người đàn ông tên Chi đó không phải chồng chị. Anh ấy đã cầm tay chị nói một câu mà chị không thể quên được: “Thôi chị về đi. Vui vẻ mà về chị ạ. Chị cứ coi như­ chị đã gặp anh ấy rồi. Và tôi, tôi cũng coi như­ đã gặp vợ tôi rồi. Chị ơi! Trong chiến tranh đôi khi cũng phải có những giả sử huyễn hoặc như­ thế để mà sống, để mà trụ vững được…”.
Chị về cố gắng níu kéo cái niềm vui “giả sử” ấy để vượt qua 39 cây số rừng. Khu rừng chị đi qua vừa bị chất dốc hóa học dội xuống, lá rừng bắt đầu rụng. Chị chạy sấp ngửa và ngã sấp bên một con suối. Tỉnh dậy, chị gặp ngay ánh mắt người binh trạm trưởng: “Có… gặp không?”. Chị ứa nước mắt, khẽ gật đầu: “Gặp rồi”. Mới đó đã mười một năm… Có lẽ vì chất độc ma quỷ ấy mà chị không có con chăng? Câu hỏi đột ngột ập đến cuối ký ức của chị làm chị bất ngờ ngồi dậy, mồ hôi ướt đẫm.
Nhưng cuối cùng chị đã mơ hồ nhận thấy hạnh phúc đã về với anh chị. Khi đó, chị ngước lên, vẫn khuôn mặt già nua của anh lấm tấm mồ hôi. Chị rơm rớm nước mắt. Tự nhiên chị khẽ rùng mình. Một cảm giác mát rượi chạy từ gót chân lên môi chị. Chị níu anh xuống, hôn đến nghẹt thở và chị òa khóc. Một chút ngơ ngác của anh. Mặc kệ. Chị rúc đầu vào nách anh, mỉm cười.
Hạnh phúc đã thực sự đến với chị. Nhưng chị chưa thông báo cho anh hay. Chị phấp phỏng chờ đợi cho đến khi nó hoàn toàn chắc chắn. Một tháng sau, chị vén áo lên thấy hai núm vú của mình đã chuyển màu tím sẫm. Chị ngắm say sưa bầu vú của chì đang căng dần… lúc đó chị mới nở một nụ cười mãn nguyện.
 Chị đ­ổ bệnh, nôn và nhiệt độ tăng cao. Anh phải nghỉ việc một ngày. Trong sự mệt mỏi, nhức nhối của cơn bệnh, chị nhận ra đứa con thân yêu của chị đang thành hình. Đến ngày thứ ba, chị tỉnh dậy, ngồi tựa vào lưng anh thì thầm :
– Em… đã… có… mang…
Anh rú lên, ôm chặt chị, hỏi:
– Có đúng không? Xem nào!
– Xem gì kia? Vô duyên. – Chị đỏ mặt đẩy anh ra. Anh ngượng nghịu ngồi bên, ôm vai chị lắc lắc:
-Đúng thế hả em?
Chị không trả lời, lặng lẽ hôn lên đôi gò má cao gầy của anh. Đêm đó, anh ngồi hút thuốc cho đến sáng, chị giục anh mấy chục lần anh cũng chẳng chịu chợp mắt.
…Cuối buổi giao ban hàng ngày, anh quay sang nói với sư­ trưởng:
-Anh Hùng này, vợ tôi… có thai rồi?
Sư­ trưởng Hùng ngửa người ra sau:
-Thế hả? Có chắc không? Anh đã kiểm tra chưa?
Anh cười, gãi đầu:
-Tối biết thế nào mà kiểm tra. Vợ tôi nói thế… chắc đúng. Một tháng năm ngày rồi…
Ông Hùng đưa tay giật giật cổ áo, mỗi lần xúc động ông thường làm thế
-Tốt quá! Tốt quá rồi!
Ông quay sang thông báo “tin mới nhận được trong ngày” cho các sĩ quan dự giao ban
– Tin mới toanh: Đại tá Chi sắp có con!
Mọi người ồ lên. Bắt tay. Bắt tay. Bắt tay. Cười. Cười râm ran. Anh cười… ứa nước mắt.
Ngày sau đó, khu gia binh râm ran chuyện vợ chồng đại tá Chi sắp có con. Vợ các sĩ quan kéo đến chia vui với chị. Chị ngồi lặng lẽ nghe các chị đã có con bày vẽ cho cách giữ gìn thai: ăn thứ gì, kiêng thứ gì đi đứng, ngủ ngáy ra sao. Chị nghe rồi mường tựa thấy đứa con của mình: khôi ngô, bụ bẫm, nó chập chững lần thành gi­ường đi về phía ba nó. Chợt nó kêu: “Pa! Pa!” và vẫy vẫy tay nhờ ba nó dắt qua một quãng khó điTiếng người nói quanh chị nhỏ dần, quyện lại bồng bềnh trôi mơ màng như­ một bản nhạc nhẹ nhàng, êm dịu…
Đêm khuya, khi chị đã chợp mắt được một lúc, tỉnh dậy thấy anh đang lục lọi va li riêng của mình. “Tìm gì vào lúc này nhỉ?”. Chị nghiêng người nhìn anh. Anh ngẩng lên, hớn hở:
– Đây rồi!
Anh chìa cho chị xem tấm ảnh của anh thời còn bé : ‘
– Thằng con của chúng ta sẽ giống nh­ư tôi… như thế này.
Chị lườm anh:
– Biết là “thằng” hay “con” mà đã…
Anh ngẩn người “ờ nhỉ ! ” rồi cười xòa.
– Nhưng thế nào nó cũng giống tôi.

50788686_ba%20(3)

Tháng sau, tháng sau nữa… Chị bắt đầu đi lại khó khăn. Da chị đã xanh càng tái xanh hơn. Anh tích cực bồi dư­ỡng cho chị. Sư­ trư­ởng Hùng tặng chị một lít lật ong trộn rư­ợu trắng với lòng đỏ trứng gà. Bác sĩ Giàu vẫn thường xuyên đạp xe đến thăm thai cho chị. Chị đang sống trong thời kỳ sung mãn nhất của hạnh phúc thì đột nhiên đổ bệnh. Lần này nặng hơn, đến nỗi sư trưởng Hùng có đêm phải thức trắng với anh ngoài hành lang phòng hồi sức. Bác sĩ Giàu trực tiếp chạy chữa cho chị, ông nhận thấy khát vọng của chị đã trở thành nhiệm vụ khắc nghiệt đối với ông.
Bệnh của chị khá trầm trọng. Không chỉ suy dinh dưỡng thiếu máu vì tuổi già như­ một số ca bệnh thường gặp, chị còn có một căn bệnh đáng sợ hơn, đấy là chất điôxin của chất độc màu da cam đã ngấm toàn thân chị. Tất cả các bảng phân tích hóa nghiệm về chị đã cho ông khẳng định như vậy. Cố nhiên điều này thì ông giấu mọi người ông bình tĩnh chống trả quyết liệt với căn bệnh nguy hiểm của chị. Tin tưởng vào tay nghề của mình, không bao giờ ông mất hy vọng.
Và rồi chị cũng đã khỏi bệnh. Chị ra viện, tuy có yếu hơn, vàng vọt hơn. Khi sắp đến ngày sinh nở hầu nh­ư chị đi lại không vững nữa. Anh dành tất cả thời gian rảnh ở bên chị. Anh trở thành cái nạng chống thực sự của chị. Chị mỗi ngày mỗi mệt nhọc, uể oải hơn nhưng trên nét mặt vẫn không hề giảm đi niềm hân hoan của một phụ nữ đến cuối kỳ sinh nở bỗng nhiên có một đứa con.
Đêm anh vén áo chị lên, ghé tai nghe tiếng đập của con mình. Anh nghe một cách nghiêm túc và kiên nhẫn. Rồi anh nằm xuống, ngó lên cái lục lạc treo ở trần nhà. Cái lục lạc đã theo anh mười bốn năm nay khắp tất cả các chiến trường. Một người bạn chiến đấu trước lúc hy sinh đã trao lại cho anh: “Cứ mỗi lần thắng trận mày lại rung lên cho tao nghe thấy, tao mừng”. Anh dã làm theo lời dặn đó chưa lúc nào quên.
Cái lục lạc làm bằng sừng dê, được chuốt, chạm trổ bằng bàn tay nghệ nhân, mỗi lần rung lên nghe nh­ư tiếng trẻ con cười. Sau ngày toàn thắng nó được treo ở trần nhà. Ngày mai, thằng con anh – không hiểu sao anh cứ nghĩ đó là “thằng” – lớn lên, chỉ cần một tuổi thôi là anh đã giao lại cái lục lạc cho nó rồi. Nó có nghlă vụ phải giữ gìn cái lục lạc cho hết đời mình. Để khi bố mẹ nó đã yên nghỉ dưới “suối vàng”, mỗi lần  thành công được một việc gì, nó phải rung lên cho bố mẹ nó mừng…
Anh lại nhổm dậy, vén áo chị, ghé tai nghe tiếng con mình.
Thôi mà!- Chị dịu dàng phản đối: – Anh làm phiền con quá.
Anh không chịu:
– Yên nào! Để anh xem con nó có ý kiến gì không?
Chị phì cười. Rồi chị cũng tự nhiên tò mò.
– Nó có “ý kiến” gì không?
Anh ngẩng lên, đáp tỉnh khô:
– Không. Nó nhất trì hoàn toàn. Nhưng tại sao anh lại nghe “te- è, te- è”… hay nó đang thổi kèn?
 Chị đập khẽ vào vai anh:
– Ông già ơi… ma bắt ông đi cho rồi.
Anh cười khà:
Ngày mai anh sẽ giao cái lục lạc cho nó, nó khỏi cần phải thổi kèn mệt
Và anh ôm hôn chị.
Lão già này sẽ hỏi vợ cho thằng con lúc nó mười sáu tuổi.
– Lại “thằng”.
Nhất định là “thằng” lão già này đã nằm mơ thấy lão và con lão đến nhà bố vợ nó rồi!
*
*          *
Ngày đứa trẻ ra đời đã đến.
Chị run rẩy bước vào phòng hộ sinh. Hai nữ y tá dìu chị từng bước một lên bậc tam cấp. Bác sĩ Giàu đứng chờ ở cửa, ông trực tiếp đỡ đẻ cho chị bởi vì ông biết chắc đây là một ca đẻ khó. Sau lưng chị là anh, sư­ trư­ởng Hùng và gần sáu mư­ơi sĩ quan cùng s­ư đoàn. Họ hồi hộp ngóng theo bóng chị. Bác sĩ Giàu khép cửa, ông giơ tay chào, ra hiệu cho mọi người “cứ yên tâm”.
Một giờ… hai giờ… ba giờ,.. Anh đã uống liền mấy cốc nước đầy. Sư­ trưởng Hùng thỉnh thoảng lại đưa tay rung rung cổ áo. Một vài sĩ quan ghé tai vào khe hở căn phòng chờ nghe tiếng trẻ khóc. Bốn giờ… năm giờ… một nữ y tá mở cửa bước ra, lập tức chị bị giữ lại:
– Ra sao rồi?
– Chị Lành sinh rồi. – Chị y tá mỉm cười, nói run run – Con trai
– A! Hoan hô!
Mọi người nhẩy lên. Sư­ trưởng Hùng ôm lấy anh lắc rất mạnh. Anh quay cuồng trong niềm vui sướng tột độ. Chợt anh nghĩ đến cái lục lạc mà anh nhớ mang theo khi đem chị vào vào viện…
Trong phòng hộ sinh. Chị nằm lịm đi sau khi đã hỏi “trai hay gái” và mỉm cười sung sướng được bác sĩ Giàu cho biết: con chị là con trai. Đứa bé đã được đưa sang phòng hồi sức thai nhi. Người hộ sinh già đang “tắm” cho thai nhi trong bể nước hấp nhiệt. Bác sĩ Giàu đứng dựa vào tủ thuốc thở dốc.
Điều mà ông cố gạt đi trong tiềm thức có lý của ông đã đến… Đứa bé là một con người dị dạng! Chân trái cháu bị bẻ gập ra sau, cứng ngắc. Mặt cháu bị bóp méo đến ghê gớm: mí mắt trái phình ra rất lớn kéo xuống bịt kín toàn bộ gò má. Môi dư­ới cháu cũng phình to, trệ xuống quá cằm.
 Không! Tạo hóa không tàn nhẫn như vậy. Chỉ có chất độc màu da cam đã ngấm với nồng độ rất cao trong cơ thể người đàn bà tội nghiệp kia mới gây ra như­ thế.
Người hộ sinh già làm việc với một thái độ điềm tĩnh kỳ lạ. Tự nhiên ông thấy ghét người hộ sinh kia. Ông cảm thấy bức bối, khó thở:
– Nước! Cho tôi ly nước.
Ông kêu to. Một trợ tá từ phòng trực vội vàng cầm ly nước bước vào. Đi ngang qua đứa bé, chị đứng sững lại giật lùi… Choang! Ly nước vỡ tan tành. Chị ngồi thụp xuống, lặng lẽ ngước lên nhìn bác sĩ Giàu.
Ông không nói gì, khẽ thở dài, đi về phía cửa sổ. Ông mở hé cửa nhìn ra. Ngoài sân, mấy chục người lính đang quay tròn bên bố của đứa bé mới sinh. Anh đang giơ cao cái lục lạc rung rung, nói như­ reo:
– Tôi sẽ hỏi vợ cho nó lúc mười sáu tuổi.
Tiếng lục lạc vang lên, nghe như tiếng trẻ con cười.
Huế, tháng 10 năm 1984


Ảnh của tôingườilàngcốm19.08.2009 lúc 4:19 chiều

Tôi đến ngôi đền văn chương của Nguyễn Quang Lập lần đầu từ “Tiếng lục lạc”. Lần ấy đọc xong, tôi đã lặng người giây lát trong cái âm thanh “Tiếng lục lạc vang lên, nghe như tiếng trẻ con cười”. Lần này sau hơn hai chục năm, đọc lại; “Tiếng lục lạc” lại làm tôi lặng người thêm một lần nữa.
Xưa nay chiến chinh thường chỉ cuốn ra chiến trường những người trai trẻ, gây ra muôn vàn cảnh chinh phu chinh phụ đau khổ. Nhưng cuộc chiến 21 năm trong truyện của NQL lại cuốn hút cả hai vợ chồng anh Chi-chị Lành vào nơi chiến địa. Anh là đại tá tham mưu trưởng sư¬ đoàn. Còn chị, ròng rã hai mươi mốt năm xa anh, là một cấp dưỡng của các binh trạm. Nói như Đường thi “Thà làm anh lính bếp/Còn hơn bác đồ ngông”, chị đúng là một lính bếp. Vì thế anh Chi không phải lo cảnh “Lấy chồng đời chiến chinh/ Mấy người đi trở lại/Nhỡ khi mình không về /thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê”. Còn chị Lành, cũng không bao giờ có cảnh: “Nương song luống ngẩn ngơ lòng/ Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai” với nỗi nhớ khôn khuây trong chốn khuê phòng mà chỉ có cảnh “hai mươi mốt năm ròng có ai ôm ấp chị đâu!” cùng với nỗi đau một bận đi tìm chồng nghiệt ngã, kiệt sức và xỉu đi nhưng người đàn ông tên Chi đó không phải chồng chị. Và khi vượt qua 39 cây số trở về đã ngã sấp bên một con suối trong một khu rừng vừa bị chất độc hóa học dội xuống.
Cuộc chiến kết thúc vang lừng 21 phát đại bác khải hoàn. Cặp đôi Chi-Lành quá nửa đời người rồi cũng được gặp lại nhau, may mắn hơn biết bao cặp vợ chồng cách nhau một thước đất mà gọi hoài có nghe tiếng nhau đâu. Mặc dù anh đã 57 tuổi với khuôn mặt già nua, những nốt sần của tuổi già cùng với mồ hôi cộm lên, da lưng trơn khô, những lớp tế bào chết ngày mỗi dày thêm và mặc dù, chị cũng đã 46 tuổi, với nước da xanh nhọt, mái tóc rụng nhiều, vàng ợt; họ cũng vẫn còn có được những phút giây hạnh phúc: “ Đêm đêm, anh ôm chị vào lòng. Chị lắng tai nghe nhịp tim anh còn khỏe không”. Dẫu đó chỉ là hạnh phúc trong trong tiếng thở dài vì chỉ một năm nữa, nếu anh chị không có con, coi như¬ hết. Giả sử khép lại câu chuyện, họ không có con thật thì cũng đã chút ít có hậu như những chuyện cổ tích dân gian.
Nhưng không phải thế. Cái hy vọng không bị coi như là hết đã nẩy mầm: Chị có thai rồi chị sinh nở. Nhưng hỡi ôi, đứa bé là một con người dị dạng! Không phải Tạo hóa tàn nhẫn như vậy mà do chất độc màu da cam đã ngấm với nồng độ rất cao trong cơ thể người đàn bà tội nghiệp kia gây ra như¬ thế. Tội ác man rợ của chiến tranh đâu chỉ là “Đống xương vô định đã cao bằng đầu” mà còn ở di hại của nó cho muôn đời sau!
*
Truyện ngắn rất gọn với ba ngàn chữ ( Chính xác là 3157 chữ) nhưng đầy ắp những tình tiết lôi cuốn người đọc và rất giàu ngôn từ thẩm mỹ gợi cảm. Nguyễn Quang Lập tỏ ra rất khéo cất giấu những cái hay và sâu sắc nhất của câu truyện để rồi bất thình lình tung ra làm choáng ngợp đầu óc và tâm hồn người đọc.
Tên truyện là “Tiếng lục lạc” nhưng mãi đến nửa cuối truyện mới xuất hiện cái lục lạc.
Ai cũng biết, cái lục lạc vừa là đồ chơi vừa là một thứ được coi là rất nhiệm màu để bảo vệ trẻ nhỏ. Khi con bắt đầu bước những bước đầu tiên, cha mẹ sợ con ngã, sợ cái cầu ao, giếng nước, sợ bụi cây nhiều muỗi mòng, sợ ngõ phố nhiều xe cộ, sợ gió máy làm con ốm đau, sợ ma quỷlàm hại con… Và để giảm nhẹ, đánh lừa cảm giác bất an ấy ,cha mẹ đeo vào chân con mình chiếc lục lạc. Tiếng lục lạc là “đôi mắt sau lưng” của cha mẹ, là tín hiệu an toàn của con. Nhà giàu thì lục lạc bằng bạc bằng đồng để phô ra sự giàu sang; nhà nghèo thì lục lạc làm bằng đất nặn rồi nung trên nóc lò gạch để cầu mong an lành. Và không chỉ có trẻ con đeo lục lạc mà có cả những cô gái cài lên cạp váy một chuỗi lục lạc bằng bạc vừa để khoe của vừa để mỗi bước đi lại reo vang những chuỗi âm thanh vui tươi thêm duyên thêm dáng. Bởi vậy, tiếng lục lạc, dù bằng đồng, bằng bạc hay bằng đất nung đều là những tín hiệu trong trẻo của hạnh phúc.
Nhưng chiếc lục lạc của đại tá Chi trong truyện của NQL lại thật kỳ lạ: Nó làm bằng sừng dê, được chuốt, chạm trổ bằng bàn tay nghệ nhân, mỗi lần rung lên nghe nh¬ư tiếng trẻ con cười. Nó là một kỷ vật thiêng liêng do một người bạn chiến đấu trước lúc hy sinh đã trao lại cho anh: “Cứ mỗi lần thắng trận mày lại rung lên cho tao nghe thấy, tao mừng”. Anh dã làm theo lời dặn đó chưa lúc nào quên suốt 14 năm khắp tất cả các chiến trường. Bởi vậy, sau ngày toàn thắng nó được treo ở trần nhà, tưởng như đã hết công trạng. Nhưng khi thấy vợ có thai sau những ngày vật vã với tuổi tác, với bệnh tật, cũng là một trận chiến mới của đời người còn lại, đại tá Chi đã nghĩ ngay ra cái sứ mệnh thiêng liêng mới cho chiếc lục lạc: giao lại cái lục lạc cho đứa con khi nó mới một tuổi. Nó có nghĩa vụ phải giữ gìn cái lục lạc cho hết đời mình. Để khi bố mẹ nó đã yên nghỉ dưới “suối vàng”, mỗi lần thành công được một việc gì, nó phải rung lên cho bố mẹ nó mừng…Đời bố đã 14 năm thắng trận hẳn đời con sẽ luôn luôn thành công trong mọi việc. Con sẽ hơn cha, còn hạnh phúc nào bằng!
Sự đời đâu có đẹp như thế! Đứa con của vợ chồng ông làm sao có thể thực hiện cái nghĩa vụ ấy. Nó không thành người; nó không có cuộc đời của con người thì làm sao nó có được sự thành công. Thương quá vợ chồng ông đại tá bất hạnh và thương quá đứa bé tật nguyền dị dạng!
“Tôi sẽ hỏi vợ cho nó lúc mười sáu tuổi.”-Câu nói của đại tá Chi không chỉ là nói cho vui mà hàm chứa biết bao lẽ đời. Đời của đại tá 57 tuổi thì 36 năm chinh chiến. Có vợ nhưng 21 năm cách biệt, và trước khi chia tay không kịp để lại cho vợ một đứa con nên mới ra nông nỗi sau ngày đoàn tụ , hằng đêm vợ chồng yêu nhau để hy vọng có đứa con mà như đọa đầy nhau vì bất lực!- “Tôi sẽ hỏi vợ cho nó lúc nó mười sáu tuổi” để nó sớm được hưởng hạnh phúc lứa đôi trong cảnh hòa bình, để nó sớm có con chứ không quá muộn màng thiệt thòi như bố mẹ nó, và để tiếng lục lạc luôn rung lên sự thành công trong cuộc đời dài lâu của nó. Ước muốn được bù trừ ấy thật cao cả nhưng không những không thành hiện thực mà sẽ thành nỗi khổ đau cho đến khi nằm dưới đáy mồ của cặp vợ chồng cựu chiến binh ấy.
Bởi thế, “Tiếng lục lạc vang lên, nghe như tiếng trẻ con cười”. Câu kết tưởng như có hậu ấy không phải là tiếng cười trẻ thơ, cũng không phải là tiểng reo thành công mà là tiếng kêu xé ruột của người trong cuộc và cũng là của cả dân tộc đã phải gánh chịu những nối đau chồng chất của chiến tranh , giờ lại thêm nỗi đau chất độc màu da cam hậu chiến. Nó cũng là lời nhắc nhủ những ai không phải ra chiến trường, những lứa đôi giờ mới đang tuổi thanh xuân; mỗi khi nghe tiếng bi bô của con cháu mình hòa trong những tiếng reo của những cái lúc lắc hiện đại đủ hình dáng đẹp như hoa lá, chim muông, sư tử, rồng phượng…, hoặc nghe những âm thanh thánh thót từ những đồ chơi điện tử văn minh hiện đại: Hãy nghĩ đến xương máu và khổ đau của những người đã phải đi qua cuộc chiến tranh quá nửa cuộc đời, mà rồi không bao giờ được nhìn thấy những đứa con bụ bẫm xinh xắn lại phải sinh ra những đứa con dị dạng. Họ sẽ còn phải tiếp tục chịu khổ đau gấp trăm ngàn lần khổ đau trong chiến tranh để làm cho hết phận sự của đời người vì những đứa con không phải do tạo hóa tàn nhẫn như vậy!
______________________________________________________________________________

(MỘT CHI TIẾT HỎI BỌ LẬP):
“Một tháng sau, chị vén áo lên thấy hai núm vú của mình đã chuyển màu tím sẫm
Chưa thấy ai tả hai núm vú của người phụ nữ khi có thai là màu tím thẫm mà chỉ thấy dân gian dùng từ thâm (cho cả núm vú của phụ nữ đã đang về già). Tục ngữ có câu: “cà khú, vú thâm” và ca dao cũng có bài:
“Chị rủ em ra tắm ở đầm
Của em thì trắng chị thâm thế này
Chị thâm cũng bởi anh mày
Khi xưa chị cũng hạt chay đỏ lòm”
Hình như năm đó bọ chưa lấy vợ?!

1. NGUYỄN QUANG LẬPTác giả bài viết19.08.2009 lúc 4:30 chiều
Cái còm của bác xứng đáng một entry rất hay, cảm ơn bác rất nhiều. hi hi về sự tím sẫm là do bọ định màu thôi, nếu vú trắng thì màu như màu tím sẫm bác ạ, còn thâm ( đen) có lẽ ở vú không trắng lắm- hi hi là bọ nghĩ thế, hồi viết chưa đầy 30 tuổi đã có vợ đâu hi hi

2. van19.08.2009 lúc 4:31 chiều
Bác Nguoilangcom oi! Bọn em xin bái phục bác! Kiến thức bác uyên thâm, cái nhìn thì vô cùng tinh tế. Bọn cem vào Quechoa học được các bác, các anh chị và cả các em, các cháu nhiều lắm. Câu “Thà làm anh lính bếp/Còn hơn bác đồ ngông” là lần đầu tiên em được biết (tất nhiên còn tỷ thứ chưa biết), nhưng thấy rất tâm đắc bác ạ. Cám ơn bác đã có cái còm hay!

3. Dong19.08.2009 lúc 5:11 chiều
Bác Nguoilangcom kính ! Em là Dong đây ạ.
Em bốp xốp từ nhỏ, cũng biết đọc sách do hồi xưa có bà chị họ làm thủ thư. Cảm thì em cũng cảm nhanh lắm. Nhưng không sâu. lại hay sa vào chi tiết vụn vặt ( Khổ thế đấy ạ, khi không hiểu được lòng người, thì hay bắt bẻ áo quần, tóc tai. Ví dụ là một thời em ghét anh Đỗ Trung Quân chỉ vì anh ấy xấu trai mà tóc tai lại bù xù, nhìn có vẻ hôi – thế đó, nhìn hình mà dám chê hôi ! Giờ thì không ghét nữa) dạo này có tiến bộ hơn trong ” cảm thụ văn học ” nhờ cả vào những đêm nghiền ngẫm ” Quê Choa”. cám ơn Bọ.
Tiếng lục lạc. Ai cũng có ý kiến bình luận hay và đầy tình người. Qua đó ta thấy yêu hơn : Yêu những đứa con may mắn mà được lành lặn khi ra đời, yêu chính bản thân mình khi được cha mẹ sinh ra khỏe mạnh, và hiểu được mình đã là món quà quý giá như thế nào trong cuộc đời cha mẹ để gìn giữ và trao cái tình ” gia bảo ” đó lại cho những đứa con.
Từ đầu đến giờ, em chờ lắm, một người diễn giải giúp em cái chi tiết …lấy vợ cho nó năm 16 tuổi… tại sao một Đại tá, Đảng viên lại nhất quyết ” tảo hôn ” cho thắn con trai sẽ có của mình.
Vâng, thì đã có bác Nguoilangcom !
Cám ơn Bác.
Dong
( Em cũng chẳng biết Bọ quan sát ở đâu mà hay thế về cái lớp da lưng khô của Đại tá Chí. Em sẽ chờ kiểm nghiệm từ bản thân. Còn chuyện ” Tím ” thì em thấy đúng đấy ạ, da trắng và mỏng, cái chỗ ấy nó kết hợp với những sắc tĩnh mach bên trong nó ngả tím )

4. Ha Linh19.08.2009 lúc 10:44 chiều
Bác ngươilangcom bình văn hay quá, kiến thức của bác rộng mỗi lần đọc còm của bác cháu học thêm được nhiều lắm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  KÍNH   BÁO Chủ nhân trang blog Bị ốm. Vì Vậy trang NgườiLàngCốm.BlogSpot xin tạm đóng cửa. Xin kính báo cùng toàn thể Độc giả xa gần !!!  ...