CẢM NHẬN SAU KHI ĐỌC BÀI VIẾT CỦA TRẦN MẠNH HẢO NHÂN NGÀY GIỖ LẦN THỨ HAI NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI
MÙA XUÂN THĂM NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI
Trần Mạnh Hảo
Nhân kỉ niệm hai năm ngày mất của nhà văn Nguyễn Khải (15/01/2008 – 15/01/2010) Trần Mạnh Hảo xin gửi tới quán rượu QUECHOA bài viết này, được viết khi anh Nguyễn Khải còn sống, còn ở trong ngôi nhà nhỏ khu Khánh Hội, chưa xây nhà to như bây giờ. Cách đây trên mười năm, bài đã in trên “Văn Nghệ” với dao kéo biên tập cắt bỏ từng đoạn lỗ chỗ. Kẻ viết bài này rất ngưỡng mộ di cảo của Nguyễn Khải : “Đi tìm cái tôi đã mất” với những phản biện chính trị sắc bén và sự hoài nghi chân thành rất thời sự. Nhiều người nói : Nguyễn Khải chết rồi mới dám nói thật. Chúng tôi đã nhận ra những ẩn ý này, những biểu tượng kia, những quằn quại nọ, những hèn nhát, những vờ vịt vừa viết vừa run, vừa hé ra một tí sự thật đã phải pha trò bông phèng đặng giấu diếm bản chất của nó, kiểu con mèo giấu của quý trong văn ông. Đấy là bi kịch của ông và của cả một thế hệ dám hi sinh tính mạng để bảo vệ Tổ Quốc, nhưng không dám hi sinh cơm áo, hi sinh lợi quyền để bảo vệ sự thật, bảo vệ chân lý. Một người trí thức không biết hoài nghi thì chỉ là một con vẹt. Không có sự hoài nghi đi kèm, niềm tin kia chỉ còn là ngụy tín. ( Con gái Marx có lần hỏi ông : phẩm chất nào của người đàn ông được cha yêu nhất ? Marx trả lời : sự hoài nghi” !). Cám ơn anh Nguyễn Khải sau khi chết, đã dạy lớp hậu sinh chúng tôi một bài học : muốn tin tưởng, cần phải học cách hoài nghi.
T.M.H.
Bác Nguyễn Khải được cái tính hiếm có là xưa nay vốn tỏ ra không biết giận, hay có giận mà giận ngầm, giận ai cũng cạy miệng không chịu nói ra lấy nửa câu, cứ để trong bụng rồi cũng tan đi như cục nước đá, hoặc là cho nó vào chữ nghĩa giấy mực là xong tuốt, nên mặc kệ cái thằng mẹ ranh hay cợt nhả là tôi có hỗn hào bông phèng kiểu gì bác cũng cứ cười. Mà tính bác Nguyễn Khải là thế, giời sinh ra là để bác cười, khóc cũng cười, ngủ cũng cười, cười được tý nào khỏe ra, trẻ ra tí ấy. Gớm, ngồi một tẹo, anh em mới trà thuốc tí ta tí tách bác bác, chú chú, lúc lại ông ông, tôi tôi chưa ngấm câu chuyện, mà hai anh lính cau ngoài cửa cứ quạt phành phạch, sốt cả ruột; giời mới thương khuất nẻo cho tí gió máy đã cuống cả lên, đã sướng run lên cầm cập, rối rít đập vầng lá xanh um vào tường như cũng muốn đòi vào nhà hóng hớt chuyện văn chương. Tôi mới thưa với bác Khải rằng cái giống phát về lá nom thì sướng mắt muốn chết, mà kỳ thực rõ khổ, có tí lộc giời cũng không giấu được, cứ đánh tiếng hão khoe ầm khắp xóm; gió mát thế mà cứ phành phạch như nóng bức lắm, phải quạt nấy quạt để không bằng. Cái giống cau trông vậy mà tham, ưa bất tử để đời, chết xuống rồi, tàu cau rụng cái ạch xuống đất rồi vẫn cứ cố sống lại cho kỳ được, sống làm cái thân quạt mo, làm dâu trăm họ, rơi vào tay anh Bờm mà bỡn cợt phú ông. Bác Khải lại cả cười, ấy vậy nó mới là cau cảnh, người cảnh, văn cảnh. Nghe tôi huyên thuyên vẻ sướng ý, bác chợt cười sôi như súng máy, làm bay cả tàn thuốc lá vào trang bản thảo nằm chơi lêu bêu vô bờ bến trên bàn. Bản thảo của bác Khải với lối chữ đi ra đi vào la đà con cà con kê, túc tắc như thím gà mái kiếm mồi, dòng chữ cao to mà ẻo lả, lênh láng mà thẳng thớm, kiểu chữ thời ba mươi bốn lăm xưa lắm. Thấy tôi khoái khẩu bàn chuyện cau, bác Khải nhếch cười nửa đùa nửa thật bảo tôi rằng ranh này nỡm, muốn biểu tượng hai mặt à, mượn cau kiếc nói cạnh khóe nhà văn chúng anh à con khỉ tầu viết phê bình phê bung kia ? Thề có giời, rằng làm sao một con khỉ tầu dúm dó hậu sinh như em đây lại có thể dám xấc láo chơi trèo, tài thánh cũng chẳng học được món võ đằng vân độn thổ biểu tượng hai ba mặt của quan bác ? Ấy là nói chuyện thời bao cấp xưa, hơi có ai rách việc mới hắng giọng ho lên, dọa rằng anh biểu tượng hai mặt đấy là co vòi, co rút bút lên với nhau, ngồi run như giẽ cả một lượt, thật chả còn ra làm sao. Chứ đích thị văn chương, theo quan niệm mở cửa tự do hóa, đa phương diện hóa mà cứ là định hướng hóa xã hội chủ nghĩa của đảng ta bây giờ, phải cỡ thế giới biểu tượng muôn mặt ấy chứ, ít ra cũng như tháp Bayon bốn mặt đều thò ra cùng một lúc mới ngoan.
Có giời làm chứng, nếu tôi bịa ra chuyện này để cốt thấy người sang bắt quàng làm họ thì xin giời cứ bắt tội bé mãi bằng con kiến; rằng tôi đã giắng thấy ( nhìn thấy) bác nhà văn Nguyễn Khải này từ đúng bốn mươi hai năm về trước, khi bác về xã Thúc Kháng quê tôi lấy tài liệu viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng :”Xung đột “. Thuở ấy, tôi còn là thằng bé cu trâu giống hệt củ khoai lang lấm láp biết mặc quần đùi, vừa dắt con nghé đi toilet ngoài mương về chuồng, cũng vừa lúc giời sắp tối, lúc thằng Tý bạn chơi trò mèo chuột, chơi bịt mắt bắt dê chạy sang dấm dúi rỉ vào tai rằng đi… không khỉ gió ? Tưởng nó rủ tôi chơi trốn tìm, nào ngờ đi xem mặt một ông nhà văn mới vụt hiện về xã ta như ông bụt mọc. Nghe có nhà văn, mắt tôi nảy đom đóm sướng. Tý bảo do việc phòng gian bảo mật, nên ngoài chủ tịch bí thư, trưởng công an xã ra, thì chỉ mình nó biết cái ông tai to, mặt lớn, cao như Tây, trắng như nặn bằng bột, bận quần gụ áo gụ, đeo xà cột đen, ngồi tủm tỉm nửa cười nửa nói, ghi ghi chép chép sốt cả ruột, mặt cứ tươi hơn hớn, ngồi hút thuốc lá liên tù tì trong Ủy Ban nhân dân xã sáng hôm qua là nhà văn quân đội Nguyễn Khải. Đúng là vùng quê tôi công giáo toàn tòng Bùi Chu Phát Diệm, theo các chú công an cho biết gián điệp cứ là còn như rươi; nên khi thằng Tý rủ đi ngắm trộm ông nhà văn, mặc dù trí tò mò làm tôi rất thích nhưng mà hãi. Cuối cùng, tôi cũng liều mạng đi, quyết ngắm thật kỹ ông nhà văn cho thích mắt. Hai thằng oắt con bí mật bò qua vườn giong riềng như hai thằng ăn trộm, đoạn nép sát tường như chuột nhắt, ngó qua cửa sổ mà xem không chán mắt ông nhà văn đang xì xụp ăn uống nói cười. Cứ tưởng ông nhà văn ma ma Phật Phật thế nào, hóa ra cũng là người như ta cả thôi. Rằng ông có vẻ hiền lành như thầy dòng, tướng đẹp hơn tướng cha Nhật nhà thờ Qũy Nhất. Mặt ông cứ tươi như hoa, phải là dân cơm trắng cá tươi, con dòng cháu giống mới đẹp thế, cao nhớn thế . Ông lại bình dân, gặp ai cũng phấn khởi, hơi tí là cười, không ai pha trò cũng cứ tủm tà tủm tỉm như con gái sắp về nhà chồng vậy. Ông này hồi bé chắc cũng là tay bợm phải biết? Ngắm no nê ông nhà văn rồi, hai thằng nhóc chợt tỉnh ra, ngộ nhỡ công an chộp được hai đứa khả nghi này, chắc chết. Hai tên xem trộm nhà văn bỗng ù té chạy, ba chân bốn cẳng bán sống bán chết vụt qua vườn giong làm người trong nhà kinh hãi đánh kẻng báo động. Lập tức du kích quát đứng lại, ai ? Còn ai vào đấy nữa, chắc là địch chứ chẳng chơi. Khi hai ba anh du kích đuổi theo bọc hậu vườn giong, chúng tôi đã như hai con ngóe vọt sang bờ ao nhà người khác, giả làm đứa mất dạy đi câu cá trộm, miệng gian dối hô ầm lên đuổi theo, đuổi theo… nên may quá thoát hiểm. Mấy hôm sau, nghe ngóng mãi không thấy bác nhà văn đâu…
Tôi tự cho mình cái vinh dự được làm quen, dù quen đơn phương kiểu rình xem trộm ấy thì vẫn cứ là quen biết với bác Nguyễn Khải từ thời còn cóc nhái, thời bác nhà văn mới hai mươi bảy tuổi, đẹp giai, tài năng, đứng đắn nhất nhì văn nghệ quân đội. Tôi học lên dần, mượn sách Nguyễn Khải đọc, ngầm coi ông là thần tượng, lại coi như họ hàng, mặc dù thời đó bác chưa nhận đồng hương Nam Định, bác còn quê nội bên Hải Hưng. Sau ngày miền Nam giải phóng, tôi mới có dịp gặp lại nhà văn Nguyễn Khải, nghĩa là cuộc gặp tay đôi, gặp để rồi sau đó, ông vẫn còn nhớ mặt mình là thằng Hảo. Tôi đã đọc hầu hết tác phẩm của ông từ “Xung đột”, “Mùa lạc”, cũng như sau này từng đọc “Cha và con và…”, “Gặp gỡ cuối năm”, “Một thời nắng nhạt”, ” Một thời gió bụi” …và nhiều cuốn khác. Ông là nhà văn lớn thời nay, một trong những con chim đầu đàn của nền văn nghệ cách mạng và kháng chiến. Văn ông nhìn chung là thứ văn hoạt, thông minh, ranh mãnh, sắc như nước, lại dây dưa thừng chão, có mỏ có ngạnh mà cũng có vây có cánh, có gai có góc mà cũng chồng nụ chồng hoa, có nghịch phá dung dăng dung dẻ mà cũng cứ nền nã, con nhà, vẫn gia phong, gia giảm, gia công, gia dụng, gia năng, gia giáo…Văn ông vượng về khí, ăn về hơi, giỏi về chữ, mạnh về hoành mà hãm về tung, hút bởi tán mà hụt hẫng khi tụ, mặn việc đạo nhưng nhãng sự đời, đi đường triết nhân hơn đường văn nhân. Các truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyễn Khải đọc được một hơi vì sức hút sâu xa của bút lực chữ , ma mãnh chữ, đáo để chữ, thao thức chữ , hóm hỉnh chữ, tai quái chữ và õng ẹo chữ . Nguyễn Khải họp chợ trong tiểu thuyết chỉ có một mình, hàng trăm nhân vật nhưng hầu như chỉ có độc một mình ông tự thân chia ra mấy mươi phần trăm đối tác mà khóc cười rôm rả. Ông lặn xuống bề sâu từng nhân vật mà hóa thân chúng vào mình, thành ra tưởng đông lắm, nghìn nghịt lắm, tập thể lắm mà hóa ra vắng hoe như chùa Bà Đanh, chỉ một cá thể, một mình ông sắm đủ các vai tuồng trên sân khấu chữ nghĩa. Xã hội tiểu thuyết Nguyễn Khải bên ngoài thì hợp tác xã mà bên trong thực chất là khoán hết ruộng cá thể ngay từ trước thời Kim Ngọc, là chỉ có một-ông-chủ-người-duy-nhất-sống, cứ riêng lẻ hùng hục suy nghĩ, hùng hục tâm trạng, hùng hục nỉ non, hùng hục day dứt. Nhân vật của ông mà anh nào ra anh nấy kiểu Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng là hỏng, là nhạt liền, là mất chất khải thị ma mãnh phong cách riêng. Nguyễn Khải chỉ có một con đường độc đạo để di chuyển rào rào như con thoi trong các hệ thống hình tượng nhân vật là chính bản thân ông. Như vậy, hẳn là ông mệt lắm, vừa làm kiến lại vừa làm cá, vừa cùng một lúc gieo cả hạn hán và lũ lụt, vừa đóng vai giăng vừa sắm vai cuội. Nguyễn Khải vượt cạn văn chương một mình trên biển cả bản thảo mồ côi chỉ độc với con thuyền – ngòi bút. Mấy chục năm, nhà văn hạng xoàng như tôi cũng trèo cả lên máy vi tính mà vi vu meo mốc. Chỉ riêng Nguyễn Khải không chịu lên máy chữ cọc cạch thổ mộ ngón tay mổ cò gõ kiến đã đành, lại vẫn cứ còn chơi bút máy thò ra thụt vào như thời Tây, chơi mực tím, mực xanh ri rỉ như máu ứa. Suối một đời viết lách, một mình ông lượn lờ đi lại, nói năng, giận hờn, buồn vui, ngơ ngác, vờ vịt, chân thành, khiếp sợ, dũng mãnh, cuồng si… mà hơn nửa thế kỷ chữ nghĩa văn chương cứ rào rào như tằm ăn rỗi, cứ cuồn cuộn hàng mấy chục đầu sách làm ồn ào lênh láng cả văn đàn, thì qủa tình đáng nể thật, tài thật. Qua văn ông, các nhân vật cuồn cuộn đến và đi, cuồn cuộn sống và chết, cuồn cuộn mặn mòi, cuồn cuộn nhạt nhẽo…trong một thế giới tất cả chỉ thở bằng hai lá phổi của một con người đã nhát mà lại thích bông phèng. Một con người lúc nào cũng có vẻ như đến đây sống thử một keo xem sao, giả ngô giả ngọng mà sống, rồi kiếp sau mới xuống trần sống thật. Ông ngồi như con cóc suy tư trong gầm giường trần thế, đùng một phát to gan nhảy kễnh lên làm cậu ông giời, gọi giông gió mà biến hóa khôn lường người ngợm, làm tít mù đèn cù đủ loại anh hùng, cùng thân, sang hèn, thiện ác, ngô nghê …Ai, vật gì đã lọt vào mắt xanh văn ông đều cứ phải nhăn răng mà sống tận cùng mình cho hết cõi tơ lơ mơ, tù lù mù Nguyễn Khải. Văn ông có khi làm ta phải nghĩ, phải sôi lên, thậm chí phải bực cả và mình chút day dứt vặt, hụt hẫng vặt, lại giỡn chơi trốn tìm vặt vãnh con cà con kê mà có khi cũng rơm rớm lẽ đời, cũng truân chuyên nỗi sống. Ông nhìn vào đời bằng cái nhìn của anh đãi cát tìm vàng, bằng mắt kẻ đánh giậm, quyết không bỏ sót chút tôm tép tiu tiu nào của cát bụi. Sở trường ông là viết về những cái vớ vẩn, nhạt nhẽo, cái bị bỏ rơi, tí mẩn, dông dài như bã mía, vỏ ốc, vỏ lon, vỏ dừa vỏ chuối…những cái nhà văn khác đi qua không ai thèm nhìn chứ chưa nói gì hạ mình xuống lượm. Nguyễn Khải cứ ngồi một chỗ ru rú trong xó nhà mà nhặt được toàn bộ rác rưởi đời sống. Ông có biệt tài lượm ve chai trên ti-vi, trên báo, lượm phế thải nơi những tâm hồn ủ ê néo hánh ù lì thấp thoáng quanh đời ông. Chứ nếu ai bảo ông hãy viết cho tôi cái đề tài lớn lao tày trời này đi, cái vụ quốc gia đại sự này đi là ông xin kiếu, có viết ra cũng giả giả, nhàn nhạt thế nào ấy.
Nguyễn Khải đi qua hai cuộc chiến tranh, đi qua bao buồn phiền lo âu kiếp người, lại phải làm nghề buồn vui dùm, đau khổ, khùng điên, ấm ớ, ma mãnh dùm, sang hèn, thiện căn, dúm dó dùm cho hàng trăm nhân vật từng dở sống dở chết trong văn ông, mà lạ thay, sao thoạt nhìn cứ tưởng ông sinh ra để dạo chơi, để ngồi mát ăn bát vàng. Ông to con, cao lớn vẻ nặng nề thế mà khi nhón gót di chuyển lại cứ như chim, lại cứ nhất mực nhẹ như bấc, như ông không hề có một tí trọng lượng nào. Có khi thấy ông đi thõng thẹo trên đường, hai tay cứ đuồn đuỗn thừa ra, chân vêu vao dấm dẳng như bước trên sân khấu, như thể ông sắp hô lên rằng như ta đây, rồi bất chợt sóng xoài đi một bài quyền long xà vờn mãnh hổ cho thiên hạ lác mắt. Ông sống như chơi, viết lách như chơi và chơi như chơi, thật thà nhân ái cũng như chơi. Nhìn ông cứ tưởng một thầy bốn tu xuất không đâu cho nhập hộ khẩu, đành núp hờ trong bộ quân phục, ăn đời ở kiếp trong bộ quân phục. Suốt một đời ông ngự trên cái xe đạp mua từ năm 1960 hiệu diamant tốt nhất thế giới mà xàng xê, mà vòng vèo mây bay gió thổi hết Phúc Xá qua Hàng Đậu, Hàng Than. Ông bảo chính cách mạng đã nặn ông ra thành người từ một cục đất thó bỏ đi, cục đất thó bị nỗi buồn tủi bên đời dẫm bẹp. Ông bảo thời Tây chiếm, người Việt Nam ta dúm dó, nhếch nhác, ẩm ương, rẻ rúng lắm, bị khinh khi lắm, tự coi thường nhau lắm, mặt mày cứ bạch phếch lên như mốc meo, như ám khói hết cả một lượt từ sang tới hèn, chứ chẳng hùng tráng, kiêu kỳ, trọng vọng, vi vu như bây giờ đâu. Chính là cách mạng đã dựng người Việt dậy, đặt nó lên bục cao danh dự và nhân phẩm đấy. Đất Nam Định, phố Hàng Nâu “Ở phố Hàng Nâu thật lắm quan ” là quê cụ thân sinh ra ông, một nhà nho, một vị quan tri huyện thanh liêm. Tôi biết tuổi thơ ông tuy được ăn học tại Hà Nội tới năm thứ ba trung học mới đi kháng chiến, nhưng lại là một tuổi thơ buồn, mang bi kịch gia đình như mang một y phục hiu quạnh. Có lẽ việc này đã góp phần tạo ra chất đơn độc đến tức tưởi, chất tự vệ vô thức vô can, chất vừa muốn giấu biến đi mọi thứ lại muốn chẻ hoe ra tất cả, nửa muốn xuôi chiều ba phải nửa muốn lộn trái tất cả sự vật lên cho rối tinh rối mù chơi cho hả của phong cách đa phong cách văn ông. May mà ông còn một con cáy trong người để bảo hiểm cho văn mình vẻ ngờ nghệch nhân hậu của con người từng bị khổ đau, mang cái khổ đau không biết cất vào đâu bèn cất hết vào văn chương cho tiện. Kẻ cô độc cả nghĩ, cả sợ, cả tin, cả ngờ, cả gói này may mắn quá, mặc dù chỉ ngồi một mình trong nhà như phỗng, ngồi như con ma xó đối diện với bản thảo, bị giời xiềng vào chữ nghĩa như một anh tù văn, lại có cả triệu người xa lạ tri âm tri kỷ từ tận đẩu tận đâu thì hồng phúc thật. Bác Nguyễn Khải lại nhìn tôi rất ư cảnh giác, cười ruồi khi tôi bảo đất Nam Định từ ông Tú Xương đến nay, những văn tài hầu như đều phải có ít nhiều chất tinh quái, nghịch ngợm. Nguyễn Bính, Văn Cao, Nguyên Hồng, Vũ Hoàng Chương, Vũ Cao, Trần Dần, Nguyễn Thi… nghịch quá đi chứ. Nguyễn Khải là cái ông nghịch ngầm, nghịch mà tưởng ngoan. Cứ nhìn đôi mắt ông thì biết, liếc vào cái gì là cái ấy bị Khải hóa, bị “Mùa lạc” hóa, “Cha và con và…” hóa. Đôi mắt ông có khi hiền lành lẩy bẩy chất cua lột, lại có khi đáo để ranh mãnh như quạ đến trời cũng chẳng tha, nhìn có khi như dây lòi tói, trói hồn vía cuộc đời lôi tuốt vào trang giấy mà pha ra từng mâm cỗ giả cầy.
Mùa xuân gió thổi quá làm tôi thêm thương hai anh lính xanh biếc trước cửa nhà bác Khải. Hai anh vẫn dùng tàu cau xùm xụp lá mà đập ràn rạt vào bức tường đời sống, toan mách lẻo với giời đất cái chuyện biết thì thưa thốt, như thể loài cau cũng tính ăn vạ ông cao xanh. Nhìn cái bàn viết văn rộng đến gần năm mét vuông la liệt giấy mực, ngổn ngang cả gánh hàng xén sách vở của ông, tôi biết dù đã chớm bảy mươi, sức viết ông vẫn còn lừng lững. Tuổi này, bút ông vẫn chưa hưu, vẫn phải hành nghề nuôi thân, vẫn tung hoành trên các báo, vẫn cứ gõ lên trang giấy tiếng gõ sột soạt, gõ kiểu ngứa ghẻ như toan gọi vĩnh cửu ơi, vừng ơi mở cửa. Ông sống được là nhờ cái duyên văn tự , nhờ một lối viết sắc sảo đến ma mị, chữ nghĩa bò như kiến tưởng lung tung lắm, quân hồi vô phèng lắm mà khi vung bút, hô một tiếng cầu phong đảo vũ là đâu lại vào đấy, là văn ra như rượu rót tràn ly. Chỉ thương hai cây cau đứng gác ngoài cửa kia sao quyết không chịu nhảy vào trang văn ông. Giá có hai anh cau này vào văn làm cột cho Nguyễn Khải dựa mà mượn gió bẻ măng; đặng lấy tán lá um tùm quạt phành phạch cho các nhân vật của ông bớt đổ mồ hôi hột, cho dòng suy tưởng luận đề nóng bức của ông hưởng được tẹo gió mùa xuân mà chữ nghĩa lại thêm phần mát mẻ .,.
CẢM NHẬN SAU KHI ĐỌC BÀI VIẾT TRÊN CỦA TRẦN MẠNH HẢO:
Bởi: ngườilàngcốm ngày 20.01.2010
lúc 10:03 sáng:
“Có trầu, mà chẳng có cau,
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm”.
Miếng trầu của người đời “có trầu mà chẳng có cau” là một nỗi éo le. Miếng trầu văn chương của bác Nguyễn Khải lại có tới ba nỗi éo le:
Một là, chỉ có cau mà không có giầu.
Hai là, cau lại chỉ là cau cảnh, cau chơi.
Ba là, cau chẳng đực, chẳng cái (dân gian gọi là cau điếc).
Thế thì : “Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm”. Họa có trời mới làm nổi! Nhưng không, chính bác Khải đã làm được. Ấy là thiên tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” mà người đời gọi là di cảo của nhà văn Nguyễn Khải.
Khi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2, bác Khải đã giãi thật lòng mình: “ Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời nhà văn đã tới hồi phải kết thúc.Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng”.
Bác Khải cũng đã nhìn lại cái tài sản tinh thần của mình bằng một đôi mắt sáng suốt: “Về gìa nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì”
Nhưng bác Khải ơi! Bác không biết đấy thôi. Chỉ một thiên tùy bút chính trị cuối đời của bác, một lá giầu tuy muộn màng nhưng đã làm thắm đỏ môi những người đọc yêu văn chương của bác !
*
Ông Trần Mạnh Hảo viết: “Nhiều người nói: Nguyễn Khải chết rồi mới dám nói thật”. Rồi ông xả một tràng từ ngữ có góc có cạnh nói về bác Khải: hèn nhát, vờ vịt vừa viết vừa run, pha trò bông phèng, giấu diếm…Từ ngữ chưa đủ, ông Hảo còn phóng bút vẽ chân dung bác Khải bằng những hình ảnh biếm họa: “con mèo giấu của quý…”, “một con vẹt”. Liệu ông Hảo có đa ngôn và ác ý khi viết và vẽ như thế?
Ông Hảo hẳn không hèn và rất nhiều người khác hẳn cũng như ông Hảo, rất không hèn. Nhưng xin hỏi, sao mấy chục năm đọc bác Khải, sao mấy chục năm các ông cầm cây bút phê bình săc bén như dao cau, các ông đã không một lời mổ xẻ văn chương bác Khải như các ông đã nhìn thấy trong đó: những ẩn ý, những biểu tượng, những quằn quại, những hèn nhát, những vờ vịt…?
Nay, bác Khải đã về cõi vĩnh hằng được hai năm. Thiết tưởng ông Hảo không nên đưa lại bài viết cũ này lên mạng làm gì. Tài bút như ông Hảo, nên dùng vào việc phân tích những giá trị sâu sắc của thiên tùy bút chính trị bác Khải để lại cho đời, giúp những người chữ nghĩa bình dân như tôi ngộ ra. Làm thế có phải là ông Hảo góp thêm lá giầu vào cau cho bác Khải, khiến miếng trầu của bác Khải thêm thắm đỏ môi lớp hậu sinh chúng ta! Làm thế có phải là ông Hảo sẽ cùng mọi người thêm ngưỡng mộ bác Khải hơn không?
*
Kẻ còm này gần như đã xem hết những tài sản tinh thần của bác Khải và đã giảng dạy văn chương bác Khải cho nhiều thế hệ học trò, thành thật mà nói, đã rất ngưỡng mộ bác Khải trước khi ngưỡng mộ đến kính cẩn cúi đầu sau lúc đọc di cảo của bác.
Nếu được phép góp ý về việc xây mộ phần cho bác Khải, tôi xin nói: Không cần mộ bia gì cả. Cứ để bác yên nghỉ dưới một nấm cỏ khâu xanh rì, trên dựng một phiến đá to, khắc đẹp và sâu dòng chữ:
“ Người “ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT”!”.
Nhưng chẳng bao giờ có ngôi mộ đó đâu, nên nhân kỷ niệm hai năm ngày mất của nhà văn Nguyễn Khải (15/01/2008 – 15/01/2010), đành xin kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ bác Khải trong tâm tưởng của riêng tôi!
•
Đây là một trong những cái còm sâu sắc, gan ruột, chân tình mà tôi tâm đắc nhất.
Hãy cho tôi đứng bên cạnh anh, Người Làng Cốm, để cùng kính cẩn nghiêng mình trước vong linh bác Khải!
Cám ơn NLC rất nhiều!
o
Bởi: Mèo Hen ngày 20.01.2010
lúc 10:12 sáng
•
Bác đã nói thay chúng tôi.
Tôi cũng rất không đồng tình với TMH khi khai thác những vấn đề như ri.
o
Bởi: Trà Hâm Lại ngày 20.01.2010
lúc 10:47 sáng
•
“Nay, bác Khải đã về cõi vĩnh hằng được hai năm. Thiết tưởng ông Hảo không nên đưa lại bài viết cũ này lên mạng làm gì. Tài bút như ông Hảo, nên dùng vào việc phân tích những giá trị sâu sắc của thiên tùy bút chính trị bác Khải để lại cho đời, giúp những người chữ nghĩa bình dân như tôi ngộ ra”. Đúng vậy, bác TMH viết về người đã khuất giống như người ta vẽ Ma (ai thấy ma đâu mà nói vẽ đúng sai), NV Nguyễn Khải có còn sống đâu mà đối chất với bác TMH???. Nhưng vẫn còn đó những đứa con tình thần của Nguyễn Khải, nhất là “đứa con Út” những người yêu văn Nguyễn Khải…; dù lúc sống Nguyễn Khải có như thế nào đi nữa nhưng truyền thống Việt Nam ta lúc nói về người đã khuất luôn với thái độ thành kính, trân trọng và thường dùng tên khác để nói tránh tên Khai sinh, trong ngày giỗ cây đại thụ trong làng Văn học Việt Nam mà bác TMH viết như rứa thì thậ không xứng tầm và xứng tâm người cầm bút cho lắm!
o
Bởi: mucdong ngày 20.01.2010
lúc 12:28 chiều
•
Bác @NLC còm hợp lý lắm! Rất cảm ơn bác!
o
Bởi: NQHwng ngày 20.01.2010
lúc 1:15 chiều
•
Cái còm ni của bác NLC đúng là một nén hương của người có lòng thành thắp lên trong ngày giỗ của bác NK. cam ơn bác NLC nhiều, nhiều lắm.
o
Bởi: tata ngày 20.01.2010
lúc 2:13 chiều
Kim Dung20.01.2010 lúc 11:46 sáng
Chào Bọ và các bác.
KD thật sự kính nể bác Người Làng Cốm, đã phân tích thấu đáo, đủ lý và tình. Người cầm bút- nhất là nhà văn có trí tuệ, thường nhìn ra sớm hơn thiên hạ. Và đương nhiên họ mang cả nỗi đau ko phải lúc nào cũng có thể giãi bầy trên trang giấy, nhất là một thời cái cá nhân của con người luôn phải hòa tan, thậm chí chẳng nghĩa lý gì trước sức mạnh nhân danh tập thể. Nay thời thế đã khác xa rất nhiều, nhất là khi có Công nghệ thông tin, có Inter…Và nỗi đau của họ, như của nhà văn Nguyễn Khải đã vỡ toang, khi ông viết “Đi tìm cái tôi đã mất”. Đọc mà ngấm nỗi đau của con người, nhất là người cầm bút- thấy cả đấy, và cả sứ mệnh phải nói thật, sống thật mà ko nổi. Đấy là nỗi đau lớn nhất, hơn cả sự nghèo khổ vật chất, hơn cả cái đói lạnh triền miên một thời. Vậy thì cần trân trọng, chia sẻ với ngay cái hèn của họ- vì đó là cái khổ đau của số đông, đâu phải của cá nhân nhà văn Nguyễn Khải để mà chê bai, giễu cợt ông một cách thâm thúy. Vì trong ông đều thấy có chút ít bóng dáng của mỗi người cầm bút. Có cái đau, cái hèn, có cái nhẫn để sống vì nhiều thứ ràng buộc…
Văn học là nhân học. Khi anh cầm bút viết chê ai đó, thì phẩm cách anh, con tim lạnh lùng hay nhân bản của anh, sự ma quái hay thiện lương của anh cũng hiện lên, giữa thanh thiên bạch nhật, cho dù anh dùng rất giỏi thủ pháp cỏ cây, hoa lá…để giễu cợt lạnh lùng, để nói cho thỏa, để giải tỏa cái khốn khổ cô độc của chính anh, thì thật ra anh cũng đáng thương.
Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì? Chẳng phải để gió cuốn đi…mà để nâng đỡ nhau, tựa vào nhau mà đi tiếp cái hành trình nhân thế, để lòng cũng đỡ đau, để con tim ấm áp, để nước mắt có rơi thì cũng là nước mắt hạnh phúc của một nhân cách người.
1. Nam21.01.2010 lúc 1:45 chiều
Rất đồng ý với nhận định của Bác, thật ra nhiều khi nhà văn vẫn có những nỗi khổ riêng của họ, những day dứt trong lòng nhưng do một áp lực nào đó họ không dám viết lên sự thật. Nhưng đến một lúc nào đó họ tuôn ra như một dòng thác mạnh mẽ mà không một ai có thể cản được. Điển hình như vụ bác nhạc sĩ Tô Hải đó thì sao? “Nhật kí một thằng hèn” đọc chưa hay lắm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét