BÀI CỦA DƯƠNG NINH NINH (7)
ĐI
TÂY VÀ ĐỌC THƠ NGUYỄN KHÔI Ở BÊN TÂY - Tạp văn Dương Ninh Ninh (Sài Gòn)
ĐI
TÂY
VÀ ĐỌC THƠ NGUYỄN KHÔI Ở
BÊN TÂY
Kính tặng Bác Nguyễn Khôi
Và gửi tới Các Bạn Tôi.
Cảm ơn bác Nguyễn Bàng đã cho tham khảo bài viết "Tản mạn về hai tiếng Đi Tây
1.
Thế là mình
đã được đi Tây, đã đang ở một thị trấn nhỏ yên bình cổ
kính miền Đông Bắc nước Pháp.
Một chuyến đi
chẳng danh giá gì vì không phải là một chuyến tùy tùng đoàn quan chức
nào của Nhà nước, cũng không phải một chuyến đi thăm thân theo lời mời vì
gia đình đâu có ai sống ở Pháp; và đơn giản nhất, cũng không phải là một tua
du lịch tự bỏ tiền túi ra mà chỉ là một chuyến đi theo chân bà chủ
người Sing gốc Đài với danh phận nhân viên cty của bà . Vậy mà trong lòng
vẫn thấy sướng âm ỷ từ lúc được bà chọn cho đi khi công ty có hàng chục người
làm.
Ngày đầu tiên
trên đất Pháp, sau bữa cơm chiều ở nhà một người bà con của bà chủ,
được bà cho phép tự do đi chơi phố trước khi về khách sạn ngủ. Không
hiểu sao, khi đôi chân dạo trên những con phố vắng giữa hai dãy nhà với bờ
tường phủ đầy dây leo và hoa đẹp, lòng dạ lại cứ vẩn vơ với hai tiếng Đi
Tây rồi chợt nhớ lại hồi mình thi được học bổng sang Sing học
NUS.
Chiều hôm trước
ngày bay, mình rủ bốn đứa bạn thân đi rong chơi phố phường và ăn vặt vài thức
quà Hà Nội. Năm đứa mình thân với nhau từ hồi Tiểu học, xưng với nhau mày tao
chứ không ông, bà, bạn, tôi như nhiều đội teen khác và thường gọi nhau bằng
biệt danh của mỗi đứa: Cái Hằng dịu dàng như một đóa hoa là Thục Nữ, cái Nga
trắng trẻo như con thiên nga Bắc cực nhưng khảnh ăn nom hơi còm là Vịt Còi,
thằng Nhân hay hỏi trăm thứ bà giằn là Tò Mò Sĩ, thằng Vinh, hai mắt kính cận
dày như trôn bát, thông hiểu khá nhiều chuyện Đông Tây kim cổ là Con Mọt Sách.
Còn mình, Ninh Ninh thì chúng trại ra là Ninh Hầm.
Khi ăn xong chầu
bánh tôm Hồ Tây, cả bọn ngồi lại bên hàng cây hoa ban tím ven hồ Trúc Bạch.
Thục Nữ đưa đôi mắt bồ câu nhìn làn nước hồ trong xanh, phẳng lặng, buồn buồn
nói:
- Thế là ngày
mai Ninh Hầm nó đi Tây rồi.
Tò Mò Sĩ hỏi vặn
ngay:
- Nó sang Sing
sao lại bảo là đi Tây ?
Thục Nữ chưa
biết trả lời ra sao thì Con Mọt Sách đáp hộ:
- Nó nói đúng
đấy nhưng chuyện đó tao sẽ nói sau. Giờ nhân nói đến hai tiếng đi Tây,
tao đề nghị chúng mình thử cùng tìm hiểu xem hai tiếng ấy có trong sách báo từ
bao giờ?
Cả bọn cười tán
thành. Vịt Còi lười học sử nhất lớp lại lên tiếng trước nhất:
- Theo tao,
Hoàng tử Cảnh là người đầu tiên đi Tây vì mùa hạ năm 1783,
Nguyễn Phúc Ánh nhờ Giám mục Bá Đa Lộc, tục gọi là Cha Cả đem theo Hoàng tử
Cảnh khi đó mới 3 tuổi làm con tin sang Pháp cầu viện.
Tò Mò sĩ lập tức
bác bỏ:
- Mọi sử sách
đâu gọi chuyện này là đi Tây mà nói là sang Pháp. Tao thấy báo
chí hiện nay đều viết Phạm Phú Thứ là Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam
đã đi Tây. Ông đi sứ cùng phái bộ gồm 60 người bằng tàu thủy mượn của
Pháp, do Phan Thanh Giản làm trưởng đoàn qua Pháp năm 1863, nhằm chuộc lại 3
tỉnh miền Đông Nam kỳ. Khi về nước, ngoài bản tường trình, Phạm Phú Thứ còn
dâng lên vua Tự Đức hai tác phẩm trong đó có Tây hành nhật ký và Tây phù thi thảo.
Vịt Còi bắt bẻ
lại:
- Phạm Phú Thứ
viết là Tây hành và Tây phù chứ đâu
phải đi Tây. 25 năm sau, năm 1888, tờ Gia Định báo đăng tải cuốn du
ký gồm 2000 câu thơ song thất lục bát của Trương Minh Ký kể về hành trình qua
Châu Âu và Bắc Phi khi ông dẫn đoàn học sinh người Việt sang Anger du học năm
1880 với những ấn tượng sâu sắc về phong tục, nếp sống xa lạ của người dân bản
xứ. Ấy là cuốn “Như Tây nhật trình”. Như Tây cũng
chưa phải là đi Tây đâu nhé!
Thục Nữ nhỏ nhẹ
góp lời:
- Tao nhớ thày
dạy Văn có lần đã dẫn giảng rằng: Năm 1922, ông Phạm Quỳnh sang Pháp dự hội chợ
đấu xảo Marseille vừa viết từ Pháp, vừa gửi bài về Việt Nam đăng liên tục 42 kỳ
trên tờ Nam Phong, giống như cách một đặc phái viên thông tấn ngày nay tác
nghiệp và tường thuật từ nước ngoài. Tác phẩm này là “Pháp du hành
trình nhật ký”. Xem vậy, đã gần hết một phần tư thế kỷ 20, hai
tiếng đi Tây vẫn còn xa lạ trên sách báo.
Đến đây thì cả
bọn đều im lặng. Bỗng trong óc mình lóe lên cái tên một truyện ngắn, mình bèn
nổ luôn:
- Phải chăng
Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên đã đưa hai tiếng đi Tây vào
tác phẩm văn học? Ấy là khi ông cho in truyện ngắn Thế là mợ nó đi Tây trên
An Nam
tạp chí năm 1932. Đi Tây với cả nghĩa đen chữ Tây viết hoa và
nghĩa bóng chỉ sự ra đi hẳn, cắt đứt hẳn của một người đàn bà với chồng
con sau 3 năm được chồng giành gần hết lương và tiền làm thêm đến ho lao ra máu
gửi sang Pháp cho cô nàng ăn học. Từ đó, hai tiếng đi Tây bắt
đầu được dùng nhiều trên sách báo. Năm1935, Nhất Linh cho ra cả một tác phẩm
với nhan đề Đi Tây ghi lại những điều mắt thấy tai nghe của
ông trong chuyến du học Pháp từ năm 1927 đến 1930. Thời Âu chiến, thực dân Pháp
bắt một số trai tráng người Việt sang Pháp đánh nhau để bảo vệ nước mẹ. Việc đi
lính ấy cũng gọi là đi Tây. Tố Hữu viết bài thơ Đi Tây năm 1938, có câu:
Đi Tây, đi lính, là đi… chết!
Con Mọt Sách gật
đầu khen:
- Hay! Ý của
Ninh Hầm chưa dám chắc đúng trăm phần trăm nhưng nó đã trả lời đúng vào câu hỏi.
Rồi nó thao thao
tiếp:
- Bắt đầu từ thế
kỉ XVI-XVII, những nhà truyền giáo mang theo đồ trang sức, pha lê, vũ khí … đổi
lấy hàng đặc sản như trầm hương, đá quí, yến sào, ngà voi, sừng tê, đồi mồi và
các gia vị quí (hạt tiêu) … tạo ra ”con đường hồ tiêu” (từ Địa Trung Hải đến Đông
Nam Á). Từ những thập niên đầu thế kỷ 16 đức tin Công giáo đã được truyền bá bí
mật tại Việt Nam .
Đầu tiên, linh mục Ignatio lén vào giảng đạo ở vùng Nam Định. Sau đó các giáo
sĩ Bồ và Tây Ban Nha kế tiếp, đi dọc các tỉnh ven biển miền Trung. Đến năm 1578,
các tu sĩ Dòng Franciscan đến Việt Nam và đến năm 1615 các tu sĩ Dòng Tên
(Jesuit) được cử đến để giảng đạo tại cả Đàng Ngoài và Đàng Trong. Rồi nhà
truyền giáo và nhà tư bản liên kết với nhau vươn cánh tay tới phương Đông,
truyền đạo và tìm hiểu thị trường, buôn bán. Chúa Trịnh, vua Lê, chúa Nguyễn
đều sẵn lòng giúp đỡ họ để tranh thủ lực lượng trợ giúp mình củng cố quyền lực.
Thời kỳ ấy, dân
ta gọi các nước Bồ và Tây Ban Nha là các nước phương Tây, gọi những nhà truyền
giáo là các giáo sĩ phương Tây và các thương nhân là người phương Tây hoặc các
nước Tây Dương hay người Tây Dương. Suy ra, ngay từ thời kỳ này, nếu có người
Việt nào theo chân các giáo sĩ hay thương nhân sang các nước phương Tây, có thể
dân chúng đã gọi là sang Tây Dương hay đi Tây nhưng nếu có,
thì cũng chỉ là lời ăn tiếng nói trong dân gian thôi.
Sau này người Bồ
và Tây Ban Nha nhường chân cho người Pháp, ta gọi nước Pháp là nước Phú Lãng
sa, người Pháp là dân Phú Lãng sa. Từ Tây giờ chỉ còn bó hẹp lại để chỉ nước
Pháp và người Pháp.
Khi Pháp xâm
lược nước ta, các nhà Nho gọi bọn Pháp xâm lược là bạch quỉ, bạch man; nhưng
dân chúng thì gọi nôm gọn hơn là quân Tây. Bài thơ dùng chữ Tây đầu tiên có lẽ
là bài Chạy giặc của cụ Đồ Chiểu:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Và sau này
hàng loạt thơ văn khác:
Quân Tây nó nhiều bề ác độc
Người ta càng lắm lúc nguy nan
Ta gọi Pháp đàn
ông là thằng Tây, đàn bà là con đầm; đàn bà Việt có chồng Pháp là me Tây, con
của hai dòng máu Pháp Việt là Tây lai, đầm lai…Tất tật mọi thứ Tây đầm đều bị
dân ta căm ghét. Bởi thế mới có chuyện bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, sau Cách Mạng
tháng 8, khi ông đang là Lãnh tụ của Thanh niên Tiền phong, bà vợ ông một lần
đi ngang trạm gác của Thanh Niên Tiền Phong đã xưng danh:
- Tôi là vợ bác
sĩ Phạm Ngọc Thạch.
Nhưng vì bà là
người Pháp nói tiếng Việt chưa sõi, anh em Thanh Niên Tiền Phong tưởng là đầm
giặc Pháp nên xử sự rất tệ hại đối với bà ấy.
Mọi thứ của
người Pháp đều gọi là đồ tây: nhà tây, giường Tây, súng tây, bánh tây, rượu
Tây, ô tây…, những thứ Tây này thì dân ta lại không hề ghét bỏ.
Cả bọn bật cười
về nhận xét của Con Mọt Sách. Nó cũng cười theo rồi lại tiếp:
- Xin lỗi chúng
mày, tao nói nốt: Thậm chí cái bao cao su Tây dùng chơi gái cũng gọi là…buồi
Tây!
- Thằng ma mãnh
này - Vịt Còi vừa nói vừa đấm thùm thụp vào lưng
Con Mọt Sách. Chờ cả bọn ngơt cơn rinh rích cười, Tò Mò Sĩ hỏi Con Mọt Sách:
- Thế mày bảo
Thục Nữ nó nói đi Sing là đi Tây cũng đúng, vì sao?
Con Mọt Sách trả
lời ngay như đã chuẩn bị sẵn:
- Ấy là đi
Tây trong cách nói hiện nay. Nghĩa là, không chỉ nước Pháp là
nước Tây, người Pháp là người Tây mà từ Mỹ, Nga, Đức, Hung, Tiệp cho đến cả Ả
Rập, Singapore…, tất tật các nước phát triển trên cơ nước Ta đều là Tây hết. Có
lẽ chỉ còn mấy nước anh em như Lào, Campuchia, Cu Ba, Mông Cổ, Triều Tiên là
không phải Tây mà thôi. Thế mới hay cho cái tiếng nước mình!
Đi Tây ngày nay đồng nghĩa với đi học, đi
buôn, đi chơi, đi hội thảo, đi hái lộc trời, đi để đổi đời, đi vì khát danh, đi
vì có tiền chùa của Nhà nước, đúng hơn là tiền thuế của dân…
Nhiều bà vợ ngày
nay mơ ước được xuất ngoại tìm đường cứu…gia đình, nhiều ông chồng
đã tình nguyện ở nhà làm nhũ mẫu với một niềm tin tất thắng.
Cánh nhà báo hầu hết gọi các ông chồng kiểu này là những ông chồng có vợ đi
Tây. Các ông này luôn phải sống trong cảnh hồi hộp với câu vè cảnh tỉnh:
Có vợ mà cho đi Tây
Khác gì xe máy để ngay bờ hồ
Và
nhiều ông nhũ mẫu , sau một hai năm đã rơi vào cảnh nhìn con thơ ngủ
ngon, buồn tủi mà than rằng: “Thế là mợ nó đi Tây!”
Lại còn phong
trào lấy chồng ngoại nữa. Các cô gái Việt lấy chồng ngoại từ Nga, Anh, Pháp,
Mỹ, Úc…đến Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản…tuốt tuột đều gọi là lấy Tây
hết .
Nói đến đây, Con
Mọt Sách bỗng hạ giọng và chậm rãi từng tiếng một:
- Nhưng xin nhớ
cho, sang Trung Quốc, lấy chồng Trung Quốc không ai gọi là đi Tây,
lấy Tây mà vẫn gọi là sang Tàu, lấy Tàu như nghìn xưa vẫn thế.
Hôm được bà chủ
chọn cho theo bà sang Pháp, mình mail ngay cho tụi bạn. Ba đứa: Thục Nữ, Vịt
Còi và Tò Mò Sĩ đều trả lời rất gọn: Sướng nhỉ! Riêng Con Mọt Sách
thì: Thế là mày sẽ đi Tây đúng nghĩa nhất với chữ Tây viết
hoa!
2.
Gần 10 giờ đêm
về khách sạn. Bà chủ hào phóng đặt cho riêng mình một phòng xinh xắn và đầy đủ
tiện nghi. Những tưởng sau một ngày công việc kín đầy thời gian, đặt mình
xuống sẽ ngủ ngay nhưng thật quái lạ, đôi mắt không chịu chợp cho một
phút. Đang chưa lý giải được thì một câu thơ chợt đến:
Một đêm thèm ngủ mà không ngủ
Và bỗng nhớ ra, đó
là câu thơ trong Đêm Venice, 1 trong 25 bài thơ Một
thoáng trời Âu của bác Nguyễn Khôi viết năm 1998.
Không biết năm
đó bác Nguyễn Khôi Âu du theo đường nào: Du lịch tự chọn, theo một
chuyến công du hay được đi chơi dối già khi sắp hạ cánh về với cuốn
sổ hưu quý hóa hơn vàng 9999? Nhưng dù đi kiểu nào thì chuyến đi ấy của bác
cũng danh giá ngàn lần hơn chuyến đi hầu cận bà chủ của mình hôm nay.
Lại chợt nhớ năm
xưa, thầy dạy Văn có nói: Đọc Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng
Linh trong căn phòng đầy ánh sáng điện thì có lý thú gì; phải đọc Liêu
Trai trong một căn lều cỏ giữa một khu vườn rộng bỏ hoang với ánh
sáng của ngọn đèn dầu hay một cây nến mới thấy được cái hết vẻ liêu
trai của nó. Mình đã đọc Một thoáng trời Âu nhưng là đọc
ở bên Ta. Giờ đọc ở bên Tây, hẳn sẽ rất thi vị!
Nghĩ thế và bật
ngay laptop.
Dẫu chỉ
là Một thoáng trời Âu nhưng qua tên một số bài thơ ta
thấy bước chân của Nguyễn Khôi đã dạo qua khá nhiều xứ sở: Đến Roma, Thăm
Vatican, Thăm Hạ Viện Italia, Trước Tháp Nghiêng Pisa, Đêm Venice, Thăm Nàng
Tiên Cá, Đến thành Vienne Viếng Mộ Hồng Quân, Thăm Chợ Cheb, Thăm Chợ Cửa Khẩu
VôiTaNốp, Cơm Tàu Ở Budapest…
Đến đâu, ông
cũng ghi lại rất sinh động về cảnh vật, con người và sự sống ở đấy bằng những
vần thơ rất mộc mạc.
Đây là cảnh
đường đến Roma:
Đồi tiếp đồi vắng vẻ
Cây thông lùn tán tròn
Mận đào đang mùa quả
Và đây là sắc
màu thơ mộng được chụp lại bằng đôi mắt của nhà thơ từ trên đỉnh núi ở rừng Vienne :
Trông vời Danube xanh xanh
Phố phường bát ngát như tranh dưới trời
Đây nữa, Pháo
Đài Hamlet's Castle tràn trề sức sống mới:
Cánh buồm trắng rập rờn
Chuyến phà đang vào bến
Người đứng câu trên sóng
Người ra nắng đứng hong
Dinh nhà vua sừng sững
Đại bác đứng vươn nòng
…
Hàng loạt cảnh
vật như thế khiến Một thoáng trời Âu thành một cuốn album thơ
quý giá.
Có cảnh đã du
hồn nhà thơ vào Thế giới cổ tích huyền thoại. Ấy là vẻ đẹp mê hoặc của
Nàng Tiên Cá, một bức tượng dựa theo câu chuyện cùng tên của nhà văn Đan
Mạch nổi tiếng Hans Christian Andersen đã được dựng lên ở vùng nước ven trung
tâm thủ đô Vương quốc Đan Mạch, biểu tượng tiêu biểu của kinh thành Copenhagen:
Ơi tiên cá...tôi ngỡ mình Hoàng Tử
Tình yêu luôn là phép nhiệm màu
Không có hẹn,duyên trời cho gặp gỡ
Đến bên bờ biển sóng để yêu nhau
Ở Việt Nam,
không biết Nguyễn Khôi đã một lần dám mộng ước mình là Vua để cưới Cô
Tấm thảo hiền về làm Hoàng hậu? Nhưng hiển nhiên, vừa đến Đan Mạch ông đã
có ngay một giấc mơ Hoàng Tử diễm huyền.
Có cảnh thật
nghẹn ngào xúc động. Ấy là một Chiều mưa lâm thâm viếng mộ
Hồng Quân ở trong lòng nước Ý đã có thời nằm dưới quyền thống trị của
đảng Phát xit. Thay cho những tiếng chuông nguyện hồn, nhà thơ ngân lên
những tiếng thơ thương xót và cảm phục những quân nhân Xô viết đã hy sinh
khi vào giải phóng thành Vienne :
Ơi những chàng trai Nga
Anh dũng và dịu hiền
CHẾT cho Nhân loại sống
Loài người có
thể lên án chủ nghĩa Cộng sản, căm ghét chính quyền Liên Xô, đập nát
tượng Stalin và đòi đưa thi hài Lê nin ra khỏi lăng…Nhưng muôn đời không thể
không biết ơn, không kính trọng sự hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ Hồng Quân
Liên Xô vì tự do cho Tổ quốc, vì sự sống của nhân loại trong đó biết bao người
lính trẻ đã vĩnh viễn không trở về nước Nga mà linh hồn họ nơi đây chỉ còn có
thể nghe vọng về từ muôn xa:
Rặng bạch dương thì thào
Ca bài sông Danube
Để nhớ trời Volga
Để hát chiều Mockba...
Có cảnh lại
khiến nhà thơ sâu lắng suy tư như thăm Thánh cung Vatican uy nghiêm lộng lẫy,
nơi Cha của các giáo dân, Vua của các vua Ngài ngự trị:
Ôi vua của các Vua
Chết cũng thành đất đá
Cũng ở dưới đất đen
Và chả "phán" chi nữa
Một suy tư rất
dân gian Việt Nam :
Vua Ngô ba sáu tàn vàng
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì
Hay trầm ngâm tự
hỏi khi thăm Pháo Đài Hamlet's Castle, nơi đã dàn cảnh vở bi kịch Hamlet
nổi tiếng của W.Shakespear:
Ai kia tranh quyền lực
Tồn tại hay là không?
“To be or
not to be”? Câu hỏi này không chỉ là câu tự vấn của riêng Hamlet hôm xưa mà hôm
nay Nguyễn Khôi nhắc nhớ; nó mãi mãi còn là nỗi trăn trở của toàn nhân loại.
Yêu cảnh vật
trời Âu bao nhiêu, nhà thơ yêu con người ở đó bấy nhiêu.
Họ không hề xa
lạ mà rất đỗi thân quen:
Nghe nói dân Roma
Cũng tựa người Nam Bộ ,
Hoa bày ở ban công
Cây xanh mát hè phố
Ông rất cảm kích
tấm lòng mến khách của bạn, cảm kích đến nỗi đã có lúc phải bối rối:
Bạn yêu ta thật tuyệt vời
Tiếc không hũ rượu để mời mọc nhau
Nguyễn Khôi rất
nặng lòng với nước Ý, bằng chứng là trong 25 bài thơ có đến trên 15 bài
viết về đất nước lấy hoa loa kèn làm quốc hoa này. Nhưng dù rất yêu nước Ý,
người Ý; nhà thơ đã không ngần ngại nói ra những sự thực để không ru ngủ mọi
người.
Nước Ý từng là
nơi xuất phát của nhiều nền văn hóa châu Âu. Nước Ý đã từng được xếp hạng là
nền kinh tế đứng thứ 7 thế giới. Nhưng ngay thủ đô Roma của nước Ý cũng không
hiếm:
Người đi giày há mõm
Và :
Chẳng hiếm kẻ lang thang
Ngủ vỉa hè, góc chợ
Kẻ cắp thành Rome
không những không thua kém mà còn vượt trội kẻ cắp chợ Đồng Xuân nổi tiếng cả
trăm năm nay ở Việt Nam :
Chớ khinh kẻ cắp thành Rome
Chợ Đồng Xuân cũng phải nhường Đại Ca
Người dân Ý sởi
lởi, thuyết lý hùng hồn tranh luận giỏi nhưng:
Mafia cũng nhất luôn
Và họ cũng đâu
có luôn lấy chữ tín làm đầu:
Gặp nhau thì vồn vã
Thết nhau cốc ly tràn
Lời hứa bay theo gió
Đất trời ngỡ Việt Nam
Sự thật ấy mới
đúng là muôn mặt xã hội loài người.
Một thoáng trời
Âu cũng là
một thoáng rộng sáng cho Nguyễn Khôi nhìn nhận tinh tường về các thể chế lớn
đang cùng nhau ngự trị Thế giới:
Nếu như ở trời
Âu này:
Quốc Hội quyền "quyết định"
Chính phủ đành "bó tay"
Chờ "trưng cầu dân ý"
Thì ở nước Mỹ xa
xôi:
Cầm quyền chỉ hai Đảng
Lèo lái chuyện kinh doanh
Dollar là bom đạn
Khét lẹt mùi chiến tranh.
Và ở Trung Quốc
núi liền núi sông liền sông với ta:
Ôi "thể chế toàn trị"
Khắc kỷ và cần lao
Có hai, cất giấu một
"Nghèo đói" cảnh giác giầu
Chỉ nhìn ra Thế
giới, không đánh giá, không so sánh và không bàn luận gì đến Việt Nam .
Một cái nhìn thật thâm trầm kín đáo!
Là người Việt
đọc Một thoáng trời Âu, ta không thể không kính trọng nhà thơ khi ở
trời Âu đã không quên đến với những người Việt xa xứ đang kiếm sống nơi đất
khách quê người.
Vào Chợ Cheb tác giả “Xuýt nhầm chợ tạm Phùng Hưng” bởi trong dãy dài cầu quán chợ có tiệm hàng Đà Lạt, có đủ măng, mộc nhĩ từ bản mường ViệtNam gửi sang. Xuýt nhầm nhưng lại
mừng khi nhận ra sự làm ăn đàng hoàng giỏi giang của đồng bào mình:
Vào Chợ Cheb tác giả “Xuýt nhầm chợ tạm Phùng Hưng” bởi trong dãy dài cầu quán chợ có tiệm hàng Đà Lạt, có đủ măng, mộc nhĩ từ bản mường Việt
Xin mừng chợ Cheb Việt Nam
Cộng đồng ta sống đàng hoàng trời Tây?
Luật chơi ai có chừa ai
Giỏi giang ra chợ nước ngoài cạnh tranh
Thăm Chợ Cửa
Khẩu VôiTaNốp, nhà thơ hóm hỉnh cười cảm thông trước tính cách làm ăn thượng
vàng hạ cám của dân ta ở xứ người khi chỉ cần một cái chợ không có mái che:
Đức một bên-Séc một bên
Việt Nam
ở giữa dựng lên "chợ trời"
Gặp những người
con tha hương ấy, tác giả luôn chia sẻ tình quê sâu sắc:
Ơi người con tha hương
Tinh quê phương trời thẳm
Gặp nhau ở thành Vienne
Xin cụng ly rượu đắng
Và bởi mang cái
chất nguyên sơ tâm hồn Việt ấy, Nguyễn Khôi không như ai mải vui quên
hết. Trong từng nơi từng lúc, con người ông ở trời Âu nhưng lòng dạ ông
thì lại như đã về đất nước:
Thưởng thức
mùi “Hương lạ hương thầm đêm Venice” thì lại “Tưởng
biển Nha Trang gió thầm thì”; Ngắm hoa pensée thì lại “Đà
Lạt nhớ trời quê”. Cắn một quả Oliu thì lại “Tưởng ngậy mùi trám
trắng” và cơm Tàu ở Budapest
ngon quá, ngon đến “ăn uống thỏa thuê” thì lại chỉ thích:
Nhà Tây vợ Việt
... ai chê cơm Tàu
Cả trăm năm nay,
đàn ông Việt thường khao khát: Cơm Tàu, vợ Nhật, nhà Tây chứ
có ai thèm vợ Việt!
Bởi thế, Lời
tạm biệt từ Praha, bài thơ cuối cùng trước khi chia tay Một thoáng trời
Âu lại toàn là những lời vui hồ hởi:
Thôi xin chào Châu Âu
Một mùa hè rất tuyệt
Để về với mưa ngâu
Với vợ con thân thiết
…………………
Chào thang máy nhà lầu
Mình về cùng ngõ xóm
Khó thấy ai đang
trên đường vui chơi bên ”xứ sướng của ngườ i” mà khi giờ chia tay đến lại mong mau mau
được trở về cùng ngõ xóm còn nghèo nàn lạc hậu ở xứ mình như thế.
Bài thơ này làm
mình vui vui nhớ ra cô gái quê trong thơ Nguyễn Bính ngày xưa, chỉ một lần ra
tỉnh thôi mà đã:
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều!
Rồi bật cười,
hình dung ra bác Nguyễn Khôi, sau cả Một thoáng trời Âu trở về
vẫn y nguyên hương Việt Nam
gió Việt Nam .
Còn mình,
mai đi Tây về sẽ ra sao nhỉ?!
3.
Không biết trong
cái đêm Venice, “một đêm thèm ngủ mà không ngủ” ấy,
bác Nguyễn Khôi đã đi vào giấc ngủ thế nào? Còn mình, đọc xong Một thoáng
trời Âu, đôi mắt ngoan ngoãn ngủ ngon ngay.
Sáng ra, gặp bà
chủ tại bàn ăn điểm tâm ở khách sạn, mình lễ phép chào và hỏi:
- Thưa cô, cô
ngủ có ngon không ạ?
Bà chủ tươi cười
gật đầu rồi bảo:
- Hôm qua, Lý
Thành Cương voice chat với cô. Biết cháu đang cùng cô ở Pháp, nó có lời hỏi
thăm cháu đấy.
- Dạ, cô cho
cháu gửi lời cám ơn anh ấy.
Cách đây ít
tháng, chẳng hiểu sao bà chủ lại mở album ảnh của bà trên Ipad cho mình
xem rồi chỉ vào một chàng trai chừng ba mươi nom rất khôi ngô rồi bà cười rất
vui bảo với mình:
- Cháu ruột cô
đấy, doanh nhân Lý Thành Cương đang sống ở Hoa lục.
Rồi ít ngày sau,
bà chủ lại bảo:
- Cô có cho
Thành Cương xem ảnh cháu. Nó khen cháu rất xinh. Hay là làm cháu dâu cô nhé!
Giờ, Bà chủ nói
Lý Thành Cương gửi lời hỏi thăm mình, chắc vẫn có ý định gắp mình cho cháu của
bà ấy đây!
Ô, mà mình OK
thì sao nhỉ?
Vừa tự hỏi xong
thì nghe trong gió ban mai, lời Con Mọt Sách chiều năm xưa bên hồ Trúc Bạch hồi
vọng lại: - Thì sang Tàu, lấy Tàu chứ sao!
Giời ạ! Đã được
bà chủ cho đi Tây rồi lại được cho sang Tàu, lấy Tàu, sao mà được nhiều thế!
Chả bù cho cụ Tú Non Côi ngày xưa, khi hỏng thi đã nói: “Hẩu lố”, “mét
xì” thông mọi tiếng / Chẳng sang Tàu tớ cũng sang Tây” nhưng cụ
đâu có được đi!
Đang nghĩ tới
lúc sẽ phải nói sao đây với bà chủ thì lại hiện lên câu thơ trong Một
thoáng trời Âu:
Nhà Tây vợ Việt ... ai chê cơm Tàu!
Muốn đổi một chữ
cho riêng mình:
Nhà Tây chồng Việt ... ai chê cơm Tàu !
Liệu có được
không, thưa bác Nguyễn Khôi?!
*
Sài Gòn, Tháng
07 năm 2016
DƯƠNG NINH NINH
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét