THI HÀO DÂN TỘC NGUYỄN KHUYẾN TRONG MẮT NHÀ THƠ CHU VƯƠNG MIỆN (4) - NGUYỄN BÀNG
http://vannghequangtri.blogspot.com/2018/05/thi-hao-dan-toc-nguyen-khuyen-trong-mat.html
Tuesday, May 8, 2018

                        
 Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến
MẤY CẢM NHẬN NHÂN ĐỌC 
CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN VỂ TAM NGUYÊN YÊN ĐỔ
Từ 
trước tới nay, trên thế giới và ở nước ta đã có rất nhiều người viết chân dung 
văn học, viết về một nhà văn nhà thơ nào đó, có người đang còn sống và có cả 
người đã mất. Với người đang còn sống, đó là những bài viết có tính cách thông 
tin, giới thiệu hoặc một phỏng vấn, trò chuyện với họ. Với nhà văn nhà thơ đã 
mất, đó có thể là những bài viết về tiểu sử và văn nghiệp và cũng có thể là 
những cuộc phỏng vấn trò chuyện giả tường. Nhờ những bức tranh ngôn từ ấy mà 
người đọc hiểu về con người và giá trị văn thơ của cácn tác giả được nói 
tới.
Những 
bức tranh chân dung ấy có thể là một bài báo, một áng văn xuôi, một bài thơ hay 
chỉ là một vài câu thơ phác hoạ một nhà văn nhà thơ với hình dáng và văn nghiệp 
đồng thời cũng làm bật lên tính cách riêng của tác giả ấy, qua đó thể hiện tình 
cảm và cách đánh giá nhà văn nhà thơ của người viết.

                          
      Tác giả Nguyễn Bàng
Gần 
đây, những người yêu văn chương thấy xuất hiện trên mạng qua những trang blog 
được đông đảo người đọc mến mộ như Chu Vương Miện, Hải ngoại phiếm đàm, Trang 
Đặng Xuân Xuyến, Văn Nghệ Quảng Trị những chùm thơ viết về các thi hào Việt Nam 
của Chu Vương Miện, cũng là cách viết chân dung nhưng hoàn toàn khác lạ cách 
viết của nhiều người đi trước từ Lê Ta (Thế Lữ). Tứ Linh (Hoàng Đạo), Tú Mỡ thời 
Tự Lực Văn đoàn đến ông đồ tân thời Xuân Sách hồi thập kỷ 60 của thế kỷ trước và 
gần đây nhất Nguyễn Khôi, Đức Hoàng.
Nó 
khác lạ là ở chỗ nó là một chùm thơ từ dăm ba bài đến cả chục bài không chỉ dừng 
lại ở chỗ phác hoạ vài nét đặc sắc về tác giả và tác phẩm mà đọc xong cả chùm ta 
thấy hiện lên những đoạn đường đời đặc trưng nhất của tác gia ấy trong bối cảnh 
xã hội của thời ấy và thông qua đó, người viết là Chu Vương Miện bầy tỏ những 
cảm xúc cùng những liên tưởng của mình về một kiếp người, một thời 
cuộc.

Tôi 
chỉ lấy một chùm thơ làm ví dụ:
THƠ 
CHU VƯƠNG MIỆN  VỀ TAM NGUYÊN YÊN 
ĐỔ.
Chùm 
thơ này của Chu Vương Miện gồm 9 bài, mỗi bài có một tên riêng. 
Bài 
mở đầu Tam nguyên Yên Đổ dựng lại đoạn đời khi Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa 
lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc 
bình thiên hạ của ông không thực hiện được. Vì vậy, đã làm đến Tổng đốc Tam 
tuyên nhưng bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc và cũng không cam 
tâm làm tay sai cho Pháp nên ông xin cáo quan về ở ẩn:
tổng 
đốc ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên
gặp 
lúc đất nước điêu linh
tiến 
thoái lưỡng nan
đành 
từ quan
về 
làng
Hai 
bài Tam nguyên và Lão cai tù  là đoạn đời 
Nguyễn Khuyến phải sống trong cảnh éo le khó xử khi đã xuất thế, phải giả vờ đau 
mắt, từ quan để được rút lui về chốn điền viên, để giữ cho toàn danh tiết.  Nhưng sau đó lại bị Hoàng Cao Khải, Kinh lược 
sứ Bắc Kì mời ông đến nhà dạy học, rồi Lê Hoan - Tuần phủ Hưng Yên tổ chức Thu 
vịnh Kiều cũng mời ông làm giám khảọ. Hoàng Cao Khải, Lê Hoan là những kẻ cộng 
tác với thực dân Pháp. Từ chối lời mời của họ, ông biết sẽ sinh chuyện lôi thôi 
nên đành miễn cưỡng nhận lờị.
Thực 
dân muốn trọng dụng ông, lợi dụng thanh thế của ông để thu phục nhân tâm, đã 
nhiều lần ủy Kinh lược Hoàng Cao Khải mời ông ra làm quan nữa, với một chức vụ 
quan trọng, nhưng ông nhất định chối từ, và đã trả lời Hoàng Cao Khải bằng bài 
thơ chữ Hán có diễn nôm đủ rõ tư tưởng và ý chí bất khuất của ông (Lời người gái 
góa không ưng tái giá nữa).
Biết 
là không thể lấy mồi phú quý lay chuyển được lòng son sắt của ông, thực dân liền 
giao cho Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải kiểm soát gắt gao mọi hành động của ông. Vì 
thế sau này ông phải nhận lời mời tới dạy học tại nhà riêng Hoàng Cao Khải cho 
tiện bề kiểm soát:
nhà 
giam là cơ ngơi của lão Hoàng
lão 
vừa là cai tù vừa là quan
kẻ 
tù duy nhất là Nguyễn Khuyến
Lê 
Hoan, quan tuần phủ Hưng Yên muốn tổ chức cuộc thi vịnh Kiều, mời Nguyễn Khuyến 
và Dương Lâm làm giám khảo là để y khoe khoang thanh thế của mình, thu phục uy 
tín trước dân chúng. Cực chẳng đã, Nguyễn Khuyến cũng đành phải chống gậy 
ra:
thằng 
bán tơ Lê Hoan dở dói ra
làm 
cho liên lụy đến lão Vương
Nguyễn 
Khuyến ta
nửa 
khách nửa là tù giam lỏng
vịnh 
Kiều dặn mãi cõi Bắc Hà
Những 
bài khác như Thu điếu, Thu điếu đóm, Tiến sĩ giấy, Nghè Và, Gió Tây bạt gió 
Đông, Bạn vàng Vân Đình cũng vẫn nói về cuộc sống của Nguyễn Khuyến khi cáo quan 
nhưng nhiều câu chữ hơn được dành cho viết về cái "chân dung" bên trong, chân 
dung tinh thần của thi hào dân tộc.
Nổi 
bật trong chân dung tinh thần ấy:
Là 
vẻ đẹp của một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thương, luôn quan tâm lo lắng cho đất 
nước trong con người Nguyễn Khuyến:
vua 
chèo thêm một lũ quan chèo
một 
sân gà vịt lẫn chuồng heo
một 
lũ bồ câu tìm kiếm thóc
bên 
cọc cầu ao một vạt bèo
vàng 
thau lẫn lộn thời thương hải
mắt 
nhòa ngấn lệ đứng nhòm theo ?
Là 
nỗi đau lòng trước cảnh xã hội nhố nhăng giả dối. Nguyễn Khuyến là một nhà nho 
đã từng làm quan nên đã thấy khá rõ cái xấu xa của xã hội đương thờị. Ông chú ý 
trước hết đến cái xấu của đám nho sĩ, của bọn quan lạị. Đi thi, làm quan trong 
thời buổi nước mất nhà tan thì có gì là thực chất, thì làm được việc gì? Ông gọi 
họ (trong đó có ông) là "tiến sĩ giấy":
nước 
mất nhà tan
bị 
ngoại quốc xâm lăng
vô 
học cũng ngang tiến sĩ
bày 
nơi hàng mã
toàn 
là giấy
toàn 
là giả
tiến 
sĩ giờ là tiến sĩ giấy
thân 
phận ngang hàng cá lòng tong
Khi 
Chu Vương Miện viết những dòng thơ trên, tôi đồ rằng ông không thể không liên 
tưởng tới các “lò ấp tiến sĩ” ở Việt Nam sau Nguyễn Khuyến cả trăm năm. Vô học 
cũng có bằng tiến sĩ! Ấy là các tiến sĩ được ấp từ các lò của Nhà nước. Ngoài ra 
còn vô số các tiến sĩ được làm từ các đường dây làm bằng giả ngoài đường 
phố.
Vì 
thế, các tiến sĩ giấy ấy (cả xưa và nay) khi ra ngoài xã hội nom cũng chẳng khác 
gì lũ hề chèo:
ê 
a đứng giữa đám phông tuồng
râu 
ria hia mão sao mà chán ?
mặt 
đen vẽ trắng cũng i uông
vua 
chèo thêm một lũ quan chèo
Là 
một tấm lòng thiết tha yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam trong tâm hồn Nguyễn 
Khuyến:
cá 
chả ăn câu núp dưới bèo
lá 
rơi lác đác trên mặt nước
thu 
về mây núi vẻ buồn hiu
Là 
tình cảm chân thật không khuôn sáo cầu kỳ với bạn bè:
chả 
bấy lâu bác tới chơi nhà
cà 
fê không có, chả có trà
ao 
cá cũng vừa vét tháng trước
cá 
con lái cá thả hôm qua
gà 
qué dịch lan tràn chết tốt
chỉ 
dàn bầu bí mướp đương hoa
cao 
đường cao mỡ kiêng đủ thứ
bác 
đến chơi nhà chơi với ta
Dương 
Khuê bạn hỡi về Yên Đổ
giường 
treo hạ xuống chốn thâm tình
mỗi 
người dùng tạm ly nước lạnh
ngó 
mắt làm lơ buổi chiến tranh
Như 
đã nói qua bên trên, Chùm thơ Chu Vương Miện về Tam nguyên Yên Đổ không chỉ nói 
về thi hào của dân tộc. Mà mượn lối vẽ chân dung cuộc sống và tinh thần của thi 
hào Nguyễn Khuyến trong một số đoạn đời, Chu Vương Miện đã lồng ghép vào những 
cảm xúc, những suy tư, những tình cảm riêng biệt của mình về con người và xã hội 
không chỉ của một thời Nguyễn Khuyến đã sống qua mà còn hàm ý cả sự liên tưởng 
tới xã hội hôm nay.
Cảm 
xúc sâu sắc nhất trong lòng nhà thơ hậu sinh Chu Vương Miện là một lòng kính 
phục, xót thương thi hào Nguyễn Khuyến.
Ông 
so sánh nhân cách nhà nho Nguyễn Khuyến khi cáo quan với hai nhân vật trong sử 
sách Trung Quốc:
Khương 
Tử Nha
câu 
cá nơi sông Vị
chờ 
thời
Hàn 
Tín
câu 
cá chợ Hoài Âm
chờ 
chức
Nguyễn 
Khuyến lỡ cỡ
câu 
cá ở ao nhà
chờ 
chết
Ông 
day dứt thương xót một hiền tài nhưng đã đầu thai nhầm kiếp sinh nên đã phải 
hứng chịu những cảnh đau lòng:
đương 
tròn hoá vuông
đương 
quan hóa dân quèn
đương 
sang chuyển qua hèn
đang 
uống rượu trà
chuyển 
qua uống nước sông
xưa 
quan
giờ 
bần cố nông
làm 
quan tổng đốc kiêm ba tỉnh
về 
hưu ôm mãi một cái nghèo
Con 
người thanh liêm chính trực ấy không khác chi một dàn hoa đẹp bị đổ cho bìm nó 
leo:
Tam 
Nguyên Yên Đổ nay đã đổ
bìm 
bìm leo tuốt luốt dàn hoa
Chu 
Vương Miện đau xót hình dung ra cảnh Nguyễn Khuyến để tránh chuyện lôi thôi, 
phải miễn cưỡng ngồi dạy học trong nhà Hoàng Cao Khải và nhận làm giám khảo vinh 
kiều do Lê Hoan tổ chức:
nửa 
khách nửa là tù giam lỏng
vịnh 
Kiều dặn mãi cõi Bắc Hà
thơ 
thoét đúng là đồ ba vạ
lẩn 
thẩn bước chân gậy chống già
bốn 
mắt sao mà nhòa ngấn lệ
Nhà 
thơ hậu sinh tự hỏi và rồi cũng xót xa tự mình trả lời:
cụ 
Đồ Chiểu
cụ 
Tam Nguyên
hai 
người sinh ra đủ cả hai mắt
không 
dùng làm gì ? đành để mù
Nhà 
thơ hậu sinh lại thương nhà thơ tiền bối thêm khi Nguyễn Khuyến đã phải chịu 
cảnh bệnh tật dày vò, khi đã bị loà cả hai mắt lại bị án sát Hưng Yên Chu Mạnh 
Trinh xỏ lá cho người mang đến biếu thi hào một chậu hoa trà chỉ có sắc, không 
có hương: 
phong 
thấp nên thường xuyên chống gậy
người 
thường hai cẳng mình lại ba
thế 
thời thôi trả cho thời thế
gay 
go chi đến mấy lão già ?
hôm 
trước có thầy Chu Án Sát
biếu 
chơi ngay hai chậu hoa trà
mắt 
mờ mờ toét nom chả rõ
hữu 
sắc vô hương chả nhận ra
bốn 
tay bằng hữu cầm cho chặt
ngoài 
trời thánh thót hạt sương sa
Bên 
cạnh tấm lòng yêu kính, xót thương Tam nguyên Yên Đổ của Chu Vương Miện là  nỗi hận cái thời nước mất nhà tan buổi ấy. Họ 
Chu vạch mặt bọn quan lại hèn nhát và thối nát, chỉ lo cho túi mình đầy ắp “rặt 
những phường Ưng Khuyển”’;  bọn cơ hội, 
tùy thời lúc đầu còn rụt rè, về sau thì công khai ra cộng tác với giặc chẳng 
khác gì “đò dọc đò ngang”:
triều 
đình rặt những phường Ưng Khuyển
trên 
dòng đò dọc lại đò ngang
tham 
chánh vương vào buổi nhiễu nhương
ê 
a đứng giữa đám phông tuồng
râu 
ria hia mão sao mà chán
mặt 
đen vẽ trắng cũng i uông
Và 
lớn tiếng chửi rủa chúng:
đứa 
được làm vua kẻ thua là giặc
bọn 
Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh
Lê 
Hoan, Hoàng Cao Khải
đúng 
là một bầy khốn nạn
Rồi 
ngậm ngùi liên hệ đến cảnh cái đêm Đỗ Mục neo thuyền ở bến Tần Hoài, trách người 
ca nữ trong quán rượu là không biết mối hận mất nước, vẫn vô tình đem bài ca 
từng bị coi là đưa tới sự mất nước của nhà Trần ra ca hát giúp vui cho đám khách 
uống rượu:
xác 
Đỗ Mục nổi lềnh bềnh trôi
theo 
sau rác rưởi và bèo củi
trên 
bến Tần Hoài
bên 
sông gái đĩ còn vang hát
tiếng 
trống kèn còn ròn rã
giữa 
đất trời nghiêng ngả
giữa 
cuộc đổi thay
Khi 
viết những dòng này, tôi đồ rằng họ Chu không thể không nghĩ tới cảnh ngày nay ở 
Việt Nam: Chuyện ca hát thì Viêt Nam không có bài Hậu Đình Hoa để vọng từ bên 
kia sông sang, nhưng bọn hát xướng thời nay còn tệ hơn cả đứa ca nhi trong thơ 
Đỗ Mục. Chúng vẫn nhởn nhơ ca hát như con ve sầu trước những chuyện cá chết ở 
Vũng Áng, về phán quyết của tòa án quốc tế liên quan đến tham vọng của Bắc Kinh, 
về thân phận của những ngư dân khốn khổ, về môi trường đang bị tàn phá một cách 
có hệ thống, Chúng vẫn đàn ca hát xướng như không có gì đang xẩy ra ở đất nước 
Việt Nam hôm nay. Cục Điện Ảnh Việt Nam duyệt theo tiêu chí phim “có nội dung 
đúng với đường lối, chủ trương, chính sách” thì mới được phát hành. Nhưng chính 
Cục này đã cho chiếu bộ phim Điệp vụ biển Đỏ trong đó có cảnh cảnh đoàn tàu 
chiến Trung Quốc bao vây “một chiếc tàu nước ngoài” và liên tục phát loa yêu cầu 
tàu này phải rời khỏi vùng biển “South China Sea” (Biển Đông) vì đây là “lãnh 
hải Trung Quốc khiến cư dân mạng nổi sóng giận giữ đã phải ngừng 
chiếu.
Mặc 
dù yêu thương, kính phục, cảm thương Tam Nguyên Yên Đổ và căm ghét xã hội nhiễu 
nhương đương thời đã đầy đoạ thi hào nhưng khác với hầu hết mọi người khi nói về 
Nguyễn Khuyến, do lòng kính trọng và yêu mến một bậc thi hào đã luôn coi cụ là 
một thần tượng không một chút tì vết, Chu Vương Miện đã mạnh dạn nêu lên những 
hạn chế trong con người nhà nho thanh liêm chính trực khả kính 
ấy.
Trước 
hết là cái học từ chương trong Nguyễn Khuyến khi không gặp thời đã đưa thi hào 
thành con người “dễ làm/ khó bỏ”:
cái 
học từ chương
thuộc 
làu sách sử kinh điển
thủa 
xửa thủa xưa
đậu 
đạt làm quan
rớt 
làm vườn
kiến 
thức trình độ có chừng đó
dễ 
làm
khó 
bỏ
Nhà 
thơ hậu sinh không ngần ngại hỏi bậc thi hào tiền bối, người đã từng ba lần đứng 
đầu thiên hạ ba kỳ thi lớn, không làm quan về quê nhà để ngồi trên thuyền câu, 
câu gì:
Tam 
Nguyên Yên Đổ
kỳ 
thi nào cũng đứng đầu
nửa 
chừng loạn lạc
cút
ngồi 
trên thuyền câu ?
câu 
gì ?
Và 
trả lời bằng một câu xem ra có phần uất hận:
câu 
để quên
Chu 
Vương Miện cũng không ngần ngại nói rõ suy nghĩ của mình về việc cụ Tam từ quan 
giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn, rằng cũng vì 
cụ không có mưu lược gì giúp dân giúp nước:
nhất, 
nhị, tam nguyên
thời 
thịnh làm một lúc
ba 
tổng đốc
Sơn 
Hưng Tuyên
giặc 
tới
không 
mưu không kế
từ 
quan
Và 
cho rằng, cáo quan để giữ liêm chính, về ở ẩn cũng chỉ là một cách chờ chết tiêu 
cực:
có 
mợ chợ cũng đông
không 
mợ cũng chả ai trông mợ về
hết 
nhà này làm vua
qua 
nhà khác làm vua
thiên 
hạ là của chung
thay 
nhau mà làm vua
thay 
nhau mà làm quan
có 
kẻ thanh liêm
có 
kẻ tham tàn
đến 
rồi đi
mạnh 
vì gạo
bạo 
vì tiền
nhưng 
không có ai ngồi chờ chết
Sự 
mạnh dạn “phê bình” Tam Nguyên Yên Đổ của Chu Vương Miện không hẳn là không có 
lý. Nếu cả dân tộc, trong hoàn cảnh nước mất, ai cũng dễ làm khó bỏ, ai cũng tìm 
cách quên hết mọi sự đời, ai cũng sẵn lòng ngồi chờ chết thì còn ai sẽ khai dân 
trí, sát cánh cùng nhau cứu nước cứu dân và cũng là cứu 
mình?
Chùm 
thơ Chu Vương Miện về Tam nguyên Yên Đổ là một chùm thơ hay nhưng không dễ đọc, 
không chỉ vì thể thơ không còn là tự do mà là rất phóng túng với những câu thơ 
dài ngắn, không thèm tính 4, 5 chân hay 7, 8 chân hoặc 12 chân hay thể loại thơ 
gì mà đoạn này như lời nói bật ra từ gan ruột, đoạn kia là đôi ba câu tứ tuyệt, 
đoạn khác lại là mấy vần lục bát. Cũng chẳng cần chú ý đến vần điệu nhưng nghe 
rất trơn tru và đậm đà những ý thơ sâu sắc. Đọc chùm thơ này của Chu Vương Miện, 
ta có cảm giác như đang đi trên một con đường đông người bỗng nghe phát ra từ 
miệng một con người phóng khoáng, có một chút ngông nghênh với những bước chân 
khật khưỡng có đôi chút bất cần thiên hạ: Văn chương hạ giới rẻ như bèo. Nhà văn 
An Nam khổ như chó. Làm thơ là quyền của mọi người. Ta nhớ cụ Tam nguyên, ta 
thương ta cảm phục cụ thì ta làm thơ về cụ. Cụ viết Thu điếu với những câu thơ 
nức danh:
Ao 
thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một 
chiếc thuyền câu bé tẻo teo
thì 
Chu Vương Miện ta bắt chước cụ, làm bài Thu điếu Thu 
đóm:
thu 
điếu thu đóm
đất 
nước loạn ly
người 
chết nơi thành
người 
chuồn người đi
quan 
cũng như tốt
cởi 
áo cùng quần
chỉ 
còn thân không
trà 
trộn với dân
thăng 
mất
Thời 
cụ Tam làm gì đã có cà phê . Nhưng ta thương cụ thanh bạch quá, bạn đến chơi nhà 
mà không có gì để tiếp bạn thì ta viết:
chả 
bấy lâu bác tới chơi nhà
cà 
fê không có, chả có trà
 ...........................................
bác 
đến chơi nhà chơi với ta
Đọc 
thơ cũng là quyền của mọi người. Thơ nào ngưới ta thích thì người ta khen. Thơ 
nào người ta không thích thì người ta chê. Cần gì lý 
luận.
Những 
người đang chen chân trên đường đi, có một số như không nghe thấy gì vẫn hối 
hả  bước chân nhưng xem ra có khá nhiều 
người dỏng tai nghe thích thú và có vài ba người gật gật đầu tán 
thưởng.
Ấy 
là tôi hình dung như thế về Chu Vương Miện khi viết chùm thơ về Tam nguyên Yên 
Đổ. Và vì thế, tôi nghĩ Chùm thơ Chu Vương Miện về Tam nguyên Yên Đổ không phải 
là kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Tôi tin rằng nó sẽ có cuộc sống riêng của 
nó.
Tuy 
nhiên, tôi có phần tiếc khi Chu Vương Miện không nhắc tới tình cảm đối với gia 
đình, bà con làng xóm của cụ Tam. Đó là lòng yêu thương rất đậm đà và chân thành 
đối với vợ (Câu đối khóc vợ), là lòng thương yêu và quý trọng các con, lo lắng 
khuyên nhủ các con sống làm người hữu ích cho xã hội, khuyên các con không lơ là 
việc đèn sách (Ngày Xuân dặn các con, Di chúc), là lối sống rất chan hoà với bà 
con làng xóm (câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng 
thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn...)
Nếu 
có thêm được một hai bài thơ nữa về các tình cảm ấy, chùm thơ Chu Vương Miện về 
Tam nguyên Yên Đổ chắc chắn sẽ, không chỉ chụp đầy đủ và đậm nét bức chân dung 
một thi hào dân tộc mà còn thể hiện sự tròn đầy một tấm lòng tôn kính, cảm 
thương của một nhà thơ hậu sinh viết về một nhà thơ bậc tiền bối.
  
                                              NGUYỄN BÀNG
  
                                          Sài Gòn, 04/ 5/ 
2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét