Bí mật 30 năm
(Bài viết của Nguyễn Quang Lập)
Phùng Quán làm bài thơ Lời mẹ dặn khi mình mới một tuổi ( 1957
), mặc dù bị cấm đoán lung tung nhưng đến năm 7 tuổi mình đã biết, còn được đọc cả bài thơ, đơn giản vì ba mình rất thích bài này. Cạnh nhà mình có bác Thông công an, hình như hồi đó bác làm trưởng hay phó ty công an tỉnh Quảng Bình, cũng rất thích bài này.
Khi nào hai cụ ngồi với nhau
cũng đều nhắc đến Phùng Quán, Trần Dần. Có người thì hai cụ nói tiếng
Pháp, vắng người thì các cụ cứ nói oang oang không kiêng dè gì, mặc kệ
mình đứng ôm cột nhà hóng chuyện. Ba mình nói anh đem bài này giáo dục
chiến sĩ công an là tốt lắm, bác Thông gật gù, nói đúng đúng. Bác Thông
nói anh đem bài này vào sách giáo khoa dạy con nít cũng rất tốt, ba mình
gật gù, nói đúng đúng.
Ba mình nhìn bác Thông cười cười,
nói nếu trên bảo bắt Phùng Quán, anh có bắt không. Bác Thông cười cái
hậc, nói tôi chấp hành nhưng trước khi chấp hành tôi sẽ phản đối. Rồi
bác thở dài, nói tôi chỉ làm được có thế thôi, khó lắm khó lắm.
Đó là vài câu tiếng Việt mình
nghe được, nhớ đến giờ. Còn thì hai cụ toàn nói tiếng Pháp, mình chẳng
hiểu gì, chỉ lâu lâu lại nghe Phùng Quán Phùng Quản. Cái tính tò mò bẩm
sinh, mình lục cho được bài thơ Lời mẹ dặn.
Còn bé chẳng thấy hay gì, chỉ thấy đúng.Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao doạ giết/ Cũng không nói ghét thành yêu giống y chang ba mạ, cô thầy vẫn dạy, có gì đâu nhỉ ?
Sau này chơi thân với Phùng Quán,
mình có kể cho anh nghe chuyện ấy, anh xuýt xoa tấm tắc khen bác Thông,
nói công an mà như thế thì quá tuyệt vời. Khi đó anh mới kể bí mật mà
anh đeo duổi chẵn ba chục năm vì bài thơ này.
Nghĩ cũng hay hay, bài thơ như
một chân lý hiển nhiên ấy lại làm cho thời đó xôn xao, đi đâu cũng thì
thào thì thầm, như vừa phát hiện gì ghê gớm lắm. Tất nhiên bài thơ bị
qui chụp là biểu tượng hai mặt, là mưu đồ đen tối của lực lượng thù địch. Từ Bích Hoàng tương một bài “Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số kẻ cầm đầu trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm” in trên Văn nghệ Quân dội số 5 ( 5/1958). Nghe thất kinh.
Anh Quán nói thực ra mình viết Chống tham ô lãng phí với Lờì mẹ dặn
như những góp ý với Đảng thôi, vì mình nghĩ mình là chiến sĩ, mình
không dám nói thật cho Đảng biết thì ai nói. Cho nên mới có câu này Trung ương Đảng ơi! /Lũ chuột mặt người chưa hết/ Đảng cần lập những đội quân trừ diệt/ Có tôi/ Đi trong hàng ngũ tiên phong! là mình nghĩ thế thật, khi đó Đảng hô một phát là mình vác súng xung phòng ngay, mưu đồ gì đâu.
Mình cười khì khì, nói mấy ông
cũng dở hơi, nếu có mưu đồ ai lại dại đi nói với Đảng, làm thế hoá ra lộ
thiên cơ à. Anh Quán cười cái hậc, nói thủa bé đến giờ mình cũng chẳng
thấy lực lượng thù địch nào đi góp ý cho Đảng cả. Nó không chửi Đảng thì
thôi, ngu gì lại đi góp ý.
Chuyện tưởng đến đó là xong, ai dè một tối ở chòi Ngắm sóng,
anh rút tiền đưa mình, nói Lập đi mua cho anh chai rượu, anh kể chuyện
này hay lắm. Chỉ chai rượu trắng với nhúm lạc rang, hai anh em ngồi gần
sáng đêm. Anh Quán kể hồi đó phê phán chỉ trích đánh đấm anh rất nhiều,
nhưng đánh đau nhất, độc nhất là bài thơ Lời mẹ dặn- thật hay không dài 112 câu của Trúc Chi, hình như in báo Nhân dân.
Mình hỏi Trúc Chi là ai, anh nói
từ từ cái đã, rồi anh ngâm nga cả bài thơ, không quên một câu nào, chứng
tỏ anh đã đọc đi đọc lại bài thơ này vài trăm lần là ít trong suốt mấy
chục năm qua. Hồi này hễ ai bị phê ở báo Nhân dân, dù chỉ nhắc
khẽ bóng gió một câu thôi, cũng cầm chắc là đời tàn. Thế mà cả bài thơ
112 câu dài dằng dặc, chụp mũ anh không thiếu một thứ gì.
Nào là Nó ghét chỗ thầy hiền
bạn tốt/Nó yêu nơi gái điếm cao bồi/ Ghét những người đáng yêu của thiên
hạ/Yêu những người đáng ghét của muôn người,/ Quen học thói gà đồng mèo
mả/ Hoá ra thân chó mái chim mồi…
Nào là Theo lẽ thường: thì sét đánh không ngã/ Chắc trên đầu có cột thu lôi/ Nếm đường mật lưỡi không biết ngọt/ Chắc ăn tham vị giác hỏng rồi/ Nghề bút giấy đã làm không trọn/ Dùng dao khắc đá cũng xoàng thôi !…
Mình nói qui kết tàn bạo thế, anh
không bị tù tội là may, cậu Tố Hữu có ba đầu sáu tay cũng đừng hòng
giúp cháu. Anh Quán gật gù, nói đúng rồi, cho nên mình có trách Tố Hữu
đâu. Đột nhiên anh nhìn thẳng vào mặt mình, nói hơn ba chục năm qua mình
chỉ làm một việc là tìm cho ra Trúc Chi là ai.
Anh Quán trầm ngâm hồi lâu, uống
hết chén rượu, nói sở dĩ mình quyết tìm cho ra Trúc Chi là ai, vì đời
mình tan nát cũng chính ông này chứ không ai khác.Tìm để biết ông ta là
ai, rứa thôi, ngoài ra không có ý chi hết. Khi đó nhiều người cho mình
dại, tìm chẳng để làm gì, nhỡ người ta biết mình đang đi tìm, có khi
mình lại thiệt thân.
Hồi đó cả nước chỉ có mỗi anh
Trúc Chi làm thơ ở Hải Phòng, anh là cán bộ tập kêt, thỉnh thoảng lên Hà
Nội vẫn gặp Phùng Quán chuyện trò rất vui vẻ. Phùng Quán đã đi tàu về
Hải Phòng hỏi cho ra nhẽ. Trúc Chi cười buồn, nói anh nghĩ tôi là hạng
người nào lại đi làm mấy trò khốn nạn đó.
Phùng Quán bế tắc, đôi khi nghi
người nọ người kia nhưng tóm lại là không phải. Năm 1989, tình cờ có
người bạn gửi cho anh tập thơ Một đôi vần của Trúc Chi do nxb Văn hoá dân tộc Việt Bắc ấn hành, trong đó in nguyên bài thơ Lời mẹ dặn- thật hay không, lời nói đầu cho biết Trúc Chi đó là Hoàng Văn Hoan.
Bí mật ba mươi năm đã giải toả,
Hoàng Văn Hoan khi đó đã cư trú chinh trị tại Trung quốc. Anh Quán cười
cái hậc, nói mình muốn gặp Hoàng Văn Hoan quá nhưng không sao gặp được.
Mình nói anh gặp làm cái gì, anh nói để nói một câu, một câu thôi. Mình
hỏi câu gì. Anh Quán uống một hơi cán chén, vuốt râu ngâm nga, nói anh Hoan ơi… ai quen học thói gà đồng mèo mả/ ai hoá ra thân chó mái chim mồi…
-
Bỗng dưng muốn khóc.
Những kẻ như Trúc Chi rồi chắc chắn sẽ tìm cách theo Tàu thôi bác ạ.
ngườilàngcốm
/ Tháng Chín 25, 2009Biết bao người dân Việt đã bỏ quê hương đi Pháp, Mĩ… thì vẫn là người Việt nam nhưng đào tẩu theo Trung quốc thì không thể không gọi là là “ gà đồng mèo mả/ chó mái chim mồi”! Nếu Trúc Chi Hoàng Văn Hoan còn sống đến ngày nay, không biết ông ta sẽ xử trí ra sao khi TQ lấy gần hết các đảo HS/TS của ta và ngăn cản việc khai thác dầu khí của ta ở Biển Đông?
Một lần nữa, bài thơ “Lời mẹ dặn” của anh Quán lại vang lên, nhắc nhở chúng ta: “ Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao doạ giết/ Cũng không nói ghét thành yêu” .
Bài thơ như một chân lý hiển nhiên mà cha ông ta đã nghìn đời hát ca trên đồng ruộng:
Có yêu thì nói rằng yêu
Chẳng yêu thì nói một điều cho xong”