Đợi đến mùa hoa phượng
Truyện ngắn Nguyễn Quang Lập
Em không thể chờ anh
Mùa hoa phượng còn xa
Xa hơn một đời người
Em không thể chờ anh
(Thơ của một nhân vật trong truyện)
Vẫn ông hiệu trưởng gõ cửa nhà
chị vào lúc khuya khoắt thế này. Trên tay cầm xị rượu sắn, ông chui qua
tấm cửa liếp, đứng giữa nhà hô một hồi, đoạn cười cái xoẹt:
– Còn gì khả dĩ không cô Mị? :
Câu hỏi muôn thủa về thực phẩm
ông cần để đổ nốt xị rượu cuối cùng vào bụng, kết thúc một ngày bình an
vô sự dưới đáy một thung lũng hoang tàn.
Tất nhiên là vẫn còn, không ít
thì nhiều chị dành cho ông một đĩa cà muối, khúc cá kho hay một vài
miếng da trâu nướng… Dù vậy, không khi nào chị đưa ngay cho ông.
– Thầy uống ít thôi. Rượu sắn chứ bở béo gì.
– Cuộc sống mà… – Ông cười cười – Cuộc sống thì có gì bổ béo đâu, thế mà ai cũng ham sống? Ha ha… Tôi triết ní đấy…
Mị cười. Đến chịu ông, khi nào
cũng đùa vui nhí nhố được, kể cả khi lãnh đạo về thăm trường. Ở cái nơi
khỉ ho cò gáy này, nếu không có ông chắc bốn chục nóc nhà trong thung
lũng đều chết héo chữ chẳng riêng gì chị.
Ông làm hiệu trưởng một trường có
năm lớp, gần năm chục học trò và bốn giáo viên nữ, ấy là trường tiểu
học nhỏ nhất thế giới, như ông vẫn nói với mọi người. Ông là cán bộ xã
được điều về phụ trách trường, đã ba chục năm nay ông vẫn phụ trách
trường không có ai thay thế.
Điều đó làm cho ông cực kỳ thích
thú. Mỗi khi có rượu vào, ông vẫn khua chân múa tay với mấy giáo viên
nữ: “Tôi không biết dạy nhưng tôi biết làm hiệu trưởng. Và vì không có
thằng đếch nào dưới xuôi ngu đến nỗi bò lên đây tranh chức hiệu trưởng
của tôi, ha ha, thế là bố mày sẽ làm hiệu trưởng đến già! Bố mày không
có trình độ nhưng bố mày biết triết ní. Cấp trên mà nghe bố mày triết ní là
cứ vỗ đùi đen đét!”. Ông cười khì khì khì, lại cười ha ha ha, rồi xua
tay: “Các cô đi dạy đi! Dạy tử tế vào. Bố mày đi ngủ đây”.
Hết “tôi” lại “bố mày” và ngủ.
Chiều chiều đi thăm phụ huynh, tức là đi uống rượu, rồi thế nào cũng
xách được một xí rượu sắn mò về nhà chị vào lúc khuya khoắt thế này.
Chị đưa cho ông bát cá khô rang mỡ. Ông cười tít mắt:
– Tuyệt qúa. Ở trường này không ai không thương thằng già này. Giá cấp trên cũng thương tôi như các cô thì…
– Thì vẫn thương đấy chứ. Thầy cứ nói….
– Ờ thì thương. Lãnh đạo không
thương lãnh đạo thì thương ai? Thương, nhưng trả lương bằng tiền. Giá cứ
trả lương cho tôi một ngày hai xị mấy lại một đĩa mồi, thế có khả dĩ
hơn không?
Ông nhấp từng tí một, thỉnh
thoảng lại ngó xuống xị rượu xem còn “khả dĩ” là bao nhiêu. Ông sợ hết
rượu, còn chị thì sợ ông về. Ở tuổi chị, không gì sợ hơn khi một mình
đối diện với cái bóng của mình.
Mà cái bóng cũng chẳng còn ra
cái bóng nữa. Nham nhở và dài ngoẵng. Thỉnh thoảng từ dưới đất mọc ngược
lên, từ trên nóc nhà đổ ập xuống. Thỉnh thoảng bò đi bò lại trên vách
như một con thằn lằn khổng lồ rồi bất chợt vo tròn rơi phịch xuống
chiếu như một đống giẻ rách. Thỉnh thoảng rung lên bần bật, tay chân
khua khoắng như động kinh. Thỉnh thoảng cuốn chặt lấy cột nhà, hai tay
vặn vẹo những ống tròn.
Làm sao chị có thể thừa nhận nó
là chị? Chị vẫn thế này kia mà: bốn mươi tư tuổi, mập và trắng. Tóc hãy
còn xanh, dù đã vơi đi khá nhiều. Và bộ ngực nữa, nó khẽ rung lên trong
đêm, ngọt và ấm. Đối với chị, bóng tối luôn luôn nguy hiểm và đểu cáng,
nó tìm mọi cách dìm chết tuổi thanh xuân của chị. Trong khi chị như
lửa. Đúng thế, như lửa. Nhưng không có gì, không cách gì để tỏa sáng.
Cuối cùng rượu cũng hết. Chị nửa
muốn mua thêm rượu cho ông, nửa muốn ông về. Ông thi cứ chóp chép
miệng hoài, nửa muốn uống thêm, nửa muốn nói với chị một điều gì. Họ rầu
rĩ nhìn nhau. Chú và cháu. Thầy và trò. Đã ba mươi năm vẫn quan hệ ấy,
không gì khác hơn. Trời xui đất khiến thế nào mà đến giờ trong thung
lũng chỉ còn họ là độc thân. Tuy thế quan hệ ấy vẫn không hề khác đi, có
khi còn ấm áp hơn bao giờ hết.
– Cô Mị này, tôi cần chút rượu nữa…
– Thôi, thầy…
– Một chút khả dĩ thôi.
– Chết vì rượu không hay hớm gì đâu, thầy.
Ông hiệu trưởng trợn mắt. Rất lâu sau, ông nói, giọng run run:
– Vậy cô bảo: chết vì cái gì thì hay?
Mị cúi xuống tránh cái nhìn của
ông. Chị cầm lấy chai rượu chạy ào ra cửa. Chị sợ chị sẽ khóc oà trước
mắt ông. Câu hỏi vô tình của ông khiến chị vụt nhớ đến kỷ mười ba mươi
năm về trước. Vẫn là kỷ niệm thôi, lại là kỷ niệm thủa thiếu thời, nhưng
đối với chị nó nghiêm trọng như một tấm huân chương, phía bên này lấp
lánh hào quang, phía bên kia là nỗi đau không bao giờ dứt.
Ôi tuổi thiếu thời nhiều mộng
tưởng điên rồ và xuẩn ngốc. Có ai như chị không, mới mười bốn tuổi đã
cả gan ngồi thu lu một mình sau tảng đá hàng giờ liền chờ đợi một người
đàn ông. Suối R. hồi hộp chảy qua trước mặt chị, nước trong vắt, có thể
nhìn rõ từng viên cuội nhỏ đang lúc lắc dưới đáy. Chị nghĩ là nó hồi hộp
nhiều hơn chị, bởi vì anh ấy sẽ ngập vào nó, sẽ vùng vẫy trong nó và nó
sẽ tha hồ vuốt ve anh. Còn chị chỉ được cái quyền duy nhất là nhìn trộm
nó và anh từ phía sau tảng đá.
Thật không ra làm sao khi lần
đầu tiên chị nhìn thấy… Chị không còn nhớ lúc đó chị có đỏ mặt lên
không, hai tai có nóng rực lên không. Ấn tượng duy nhất chị còn nhớ được
là sự kinh ngạc, không ngờ nó lại ghê gớm làm vậy. Nhưng chị không cần
nó. Không không không, chị không cần. Chị cần nhìn anh, cần ngắm vuốt
anh mỗi ban mai anh vừa tắm vừa huýt sáo trong lòng suối.
Anh đẹp như các hiệp sĩ trong
các sách tập đọc, một vẻ đẹp thần thánh dưới mắt cô bé chưa lần nào
bước ra khỏi thung lũng. Mối tình của hiệp sĩ hào hoa với cô bé quàng
khăn đỏ đi tìm hạt dẻ, tình cờ gặp nhau, yêu nhau, hẹn hò nhau bên bờ
suối, một bờ suối có nắng có hoa có vượn hú chim kêu có sương rơi
bướm đậu đã được vẽ ra trong trí tưởng tượng phì nhiêu của chị, khiến
chị ngợp thở vì sung sướng.
Chị không biết anh là ai, từ đâu
tới. Một buổi sáng đi kiếm củi, chị bất ngờ nhìn thấy anh từ phía sau
tảng đá. Thế thôi, giản dị như cổ tích. Ròng rã mười ngày trời chị cố
gắng tìm mọi cách để anh biết được chị. Nếu anh bất ngờ nhìn thấy chị,
anh sẽ làm gì? Không biết. Nhưng khi đó thật tuyệt vời, chị nghĩ thế.
Chị thử ném một viên sỏi, thử bẻ
một cành cây, thử ho lên mấy tiếng. Kỳ quặc, anh vẫn huýt sáo. Chị chuồi
hai tay lên phía trước tảng đá, tiếng huýt sáo vẫn không ngừng. Chị nhô
đầu lên, nhô thật cao, nhìn anh đăm đắm. Anh vẫn không hay biết.
Chị tức tưởi khóc cười sau tảng
đá cho đến khi anh rời bờ suối mất hút trong rừng dẻ tím. Vậy là hết một
ban mai, lại một ban mai khác, một ban mai khác nữa. Bây giờ trong lòng
suối không chỉ mình anh. Không chỉ mình chàng huýt sáo trong lòng suối
và nàng tức tưởi khóc cười sau tảng đá.
Bây giờ trước mặt chị là hai
ngườ: chú bộ đội và cô Diệp, cô giáo chủ nhiệm của chị. Chuyện cổ tích
bốc cháy. Bốc cháy thảm hại trước mặt chị. Trước mặt chị họ dang ghì
chặt vào nhau. Họ đang ghì chặt vào nhau trước mặt chị. Những tiếng kêu
không rõ đau đớn hay hạnh phúc đập vào ngực chị liên hồi… Trắng và trắng
và trắng quần đảo mù mịt. Mắt chị hoa lên. Chị dập đầu vào tảng đá, nằm
bất động cho đến quá chiều.
Cuối cùng anh ấy cũng ra đi, còn
chị phải ngày ngày đối diện với cô Diệp. Cô vẫn vậy, vẫn tươi vui, vẫn
thánh thót với bài giảng của mình. Chị không còn là chị nữa. Chị cảm
thấy những gì cô Diệp nói đều phi lý và giả trá. Mỗi lần chị ngước lên
bảng là chỉ thấy trắng. Trắng trắng trắng cùng với những tiếng kêu rên
loạn xạ.
Chị bỏ học. Bỏ hẳn. Không ai
khuyên can nổi chị. Cô Diệp cũng không ngờ cô bé thông minh và xinh xắn
như chị bỗng đâm ra bướng bỉnh.
– Đừng nên thế, Mị. Nghe cô nói này…
Không dưới một trăm lần cô Diệp bắt đầu như thế, trong khi chị trùm kín chăn nằm cứng đờ.
Sự kiên trì, đức hy sinh, lòng
nhân ái hay những gì đại loại như thế thường vẫn được đền bù xứng đáng,
cố nhiên không thoát khỏi những ngoại lệ đau đớn và nhục nhã. Buổi
chiều cuối cùng cô Diệp đến nhà chị là một buổi chiều yên tĩnh. Hình
như có mưa hay sương mù gì đó mà tóc cô Diệp ướt đầm. Cô nhẹ nhàng
lật tấm chăn và nhìn vào mắt chị. Một cái nhìn thật bao dung nhưng chị
làm sao biết được. Chị chỉ thấy trắng, chỉ thấy trắng, vậy thôi.
– Nghe cô nói này…
– Nói cái gì? .
– Kìa. Sao lại trả lời cô thế?
– Cô về đi.
– Em phải đi học, Mị… Cô khuyên em…
Chị chồm dậy, chụp lấy cổ áo cô day mạnh. Chị hét lên, không, chị nghiến răng tru tréo:
– Khuyên! Khuyên! Khuyên! Đồ hủ hóa, lại còn khuyên!
Một cái tát nảy lửa dáng xuống mặt chị. Cái tát mạnh đến nỗi ba mươi năm sau mỗi lần nhớ đến chị lại giật mình oà khóc.
*
* *
Đêm chưa tàn, rượu vẫn còn, nhưng chị và ông đều đã say. Cuộc say không tính trước. Mà đã mấy ai tính trước những cuộc say.
Ông hiệu trưởng cầm đĩa gõ bát liên hồi và hát. Vẫn bài hát nhãng nhít “tự biên tự diễn” của ông: “Cuộc sống ơi, người quí giá biêt bao nhiêu. Nhưng tôi chẳng biết sử dụng người vào việc gì””…
– Có đúng thế không, cô Mị nhẩy?
Chị không trả lời. Đúng hơn chị
không còn sức để trả lời. Chị đã uống quá nhiều. Một chén quên đi. Một
chén nhớ hết. Một chén dối mình. Một chén dối người. Những chén sau là
để bốc trần mình và người.
Cuối cùng là cảm giác muốn bay
lên, muốn đạp đổ tất cả để bay lên. Chị thấy mình nhẹ bỗng và vui, không
biết vui về nỗi gì nhưng rất vui. Cái gì cũng thấy buồn cười ngay cả
cái mặt nhàm chán của ông hiệu trưởng chị cũng thấy buồn cười chết đi
được. Nó như mặt trống phải dùi, cứ rung lên bần bật.
Ông hiệu trưởng cũng đang vui đáo để. Ông hát rất to, tuồng như rú gào chứ không phải là hát. “Ai
bảo rượu nguy hiểm, kẻ đó không thương ta. Kẻ đó coi cuộc sông là ôtô,
là tàu hỏa. Một mai tất cả chết đi, ôtô không chết, tàu hỏa cũng không.
Hỏi để làm gì, biết bán cho ai?… “
Ôi chao thầy hiệu trưởng ơi ?
Thầy hát cái gì thế? Đến chết cười. Thầy đang khóc phải không? Đang khóc
chứ không phải hát, có đúng không? Thầy cứ dối mình. Hết ngày này sang
ngày khác thầy cứ dối mình. Chứ còn gì nữa!
Chị bỗng ngửa cổ cười sằng sặc.
Ông hiệu trưởng im bặt. Ông trân trố nhìn chị rồi vồ lấy chai rượu tu
ừng ực. Cần phải say nữa. Mỗi ngày cần phải làm cho mình say thêm, sao
cho toàn bộ ký ức ba mươi năm về trước ngập chìm trong rượu. Khổ thay,
thứ gì ông cần nhấn chìm thì nó lại nổi lên, dập dềnh trong đời sống
thường nhật của ông, làm cho ông không khi nào được thanh thản.
Một ông hiệu trưởng trẻ măng
chưa vợ yêu một cô giáo trẻ măng chưa chồng. Thật tuyệt. Tất nhiên yêu
được người đẹp nhất thung lũng không phải là chuyện dễ. Cũng phải mưu
này mẹo nọ, cũng phải thơ ngắn nhạc dài, cũng phải sớm đưa chiều đón.
Rồi thì ví von, rồi thì thư từ, rồi thì quà cáp. Đủ cả. Hai năm trời
chứ không ít. Vậy mà xôi hỏng bỏng không.
Diệp đã từ chối lời thỉnh cầu
của ông, theo kiểu: “Em rất… nhưng mà…” Có đến chục thằng đã được cô trả
lời: “Em rất… nhưng mà…” chứ riêng gì ông đâu. Tuy thế ông vẫn cú. Ông
khác, mấy thằng đó khác. Ông phải có chút “đặc quyền đặc lợi” khả dĩ đối
với Diệp chứ. Ông tưởng thế, hóa ra không. Thế mới cú.
Hôm người lính ấy trở về tìm
Diệp, ông ngẩn người. “Công ông xúc tép nuôi cò…” Mấy cô giáo trẻ cười
sau lưng ông. Ông đã uống say. Rất say. Đấy là trận say đầu tiên của
ông trong đời. Một cô giáo nào đó nhỡ mồm khen “cặp ấy” đẹp đôi. Ông
khùng lên, khua chân múa tay:
– Đẹp cái gì? Đang khi bom đạn
đầy trời. Chỗ này đùng, chỗ kia đoàng. Hắn nếu chết thì thành liệt sĩ
nếu sống thì thành anh hùng. Cả hai… đều không
hợp với cô Diệp đâu!
– Thế yêu cái ông mất lập trường như thầy thì hợp à?
Mấy cô giáo trẻ cười ré lên và bỏ chạy.
Diệp vẫn cặp kè với người lính,
trừ những giờ lên lớp còn thì không mấy khi họ rời nhau. Ông nghĩ ngợi
suốt đêm về ba mươi lá thư tình ông đã viết, rồi sáng mai sai học trò
mang ba chục quả trứng vịt đến phòng cô Diệp, nói là thầy hiệu trưởng
mừng cô…
Một tuần sau, vừa bảnh mắt ông đã
nghe tiếng vịt kêu dưới lưng mình. Ngó xuống gầm giường ba chục chú
vịt con đang nhóng mỏ lên mũi ông kêu chíp chíp. Điên tiết ông đá bay rổ
vịt ra sân và lập tức triệu tập giáo viên họp hội đồng khiến mấy cô
giáo bày ra trò nghịch ngợm này, mặt cắt không còn hột máu.
Diệp không hề nhận được một quả
trứng nào của ông nên cô ngơ ngác không hiểu sao cuộc họp hội đồng khẩn
cấp, lại chỉ ngồi nghe ông hiệu trưởng giải thích vì sao hôn nhân gia
đình không được tách rời luật pháp và vì sao Mác đã trả lời đanh thép:
“Hạnh phúc là đấu tranh!”.
Chính ông cũng không hiểu ông
nói gì nữa là Diệp. Chỉ đến khi Mỵ, cô bé học trò yêu của Diệp rêu rao
cho toàn thung lũng biết chuyện “ghê tởm” của cô Diệp với người lính,
chỉ đến khi trên cổ Diệp nổi lên một đường gân xanh thì cô mới rùng mình
hiểu ra tất cả.
Ông đã gõ cửa phòng Diệp cũng vào
lúc khuya khoắt như thế này. Ông đã nói gì với Diệp nhỉ. Nói gì nhỉ? Ô
hay, vừa nãy đang nhớ, bây giờ đã quên. Mà nhớ làm gì! Hả? Nhớ làm gì!
Quên đi, quên!.
Choang! Chai rượu vỡ tan. Rượu
màu có khác, cứ chảy ra máu. Chị nhìn chằm chằm vào vết rượu loang. Ồ
như máu thật. Như máu chảy ra từ ngực cô Diệp khi người ta cõng cô từ
“tọa độ lửa” trên đường 15 chạy về thung lũng. Cô Diệp đã chết, chỉ còn
máu là vẫn cứ chảy ra hoài.
Ông hiệu trưởng nói với học sinh
là cô đã hy sinh chứ không phải là chết. Chị cũng nói với học sinh như
vậy mỗi lần kể về truyền thống nhà trường. Có điều chị không nói vì sao
sau cái chết của cô Diệp chị lại cắp sách tới trường.
Ông hiệu trưởng cũng vậy, ông
không nói vì sao cô Diệp có thể biết được một đoàn xe đang bị máy bay
địch bao vây tại “tọa độ lửa”, cần phải có một ngọn lửa đánh lạc hướng,
kéo bom đạn về phía mình, cho đoàn xe an toàn ra tiền tuyến, trong cái
đêm ông gõ cửa nhà cô.
Dưới đáy va-ly của cô có một bài thơ cô gửi cho người lính. Bài thơ ấy đến giờ ông hiệu trưởng vẫn còn đang giữ.
Trại sáng tác văn xuôi, Quảng Trị 1993
“Hoa phượng đỏ
Đầy ước mơ hy vọng”
Mà sao “Đợi đến mùa hoa phượng” lại buồn thảm đến vậy! Phải chăng đúng như lời thơ của một nhân vật trong truyện: “Mùa hoa phượng còn xa/
Xa hơn một đời người”.
Đời người của bốn nhân vật chốc đà đã ba chục năm thay đổi:
-Ông hiệu trưởng bất đắc dĩ , một cán bộ xã được điều về phụ trách trường, đã ba chục năm không có ai thay thế vì không có thằng đếch nào dưới xuôi ngu đến nỗi bò lên đây tranh cái chức hiệu trưởng ấy. Ba mươi năm với công việc tưởng như nhàm chán vô bổ: Hết “tôi” lại “bố mày” và ngủ. Chiều chiều đi thăm phụ huynh, tức là đi uống rượu,. Nhưng mấy ai biết bên trong, ông đã từng một thời là một ông hiệu trưởng trẻ măng chưa vợ yêu một cô giáo trẻ măng ch¬ưa chồng. Dẫu là một tình yêu đơn phương, xôi hỏng bỏng không nhưng không thể nói là không đẹp vì đã phải m¬ưu này mẹo nọ, thơ ngắn nhạc dài, sớm đ¬ưa chiều đón, ví von, thư¬ từ, quà cáp, hai năm trời chứ không ít. Để rồi, ông hiệu trưởng trẻ măng biến thành một người mỗi ngày cần phải làm cho mình say thêm, sao cho toàn bộ ký ức ba mươi năm về trước ngập chìm trong rư¬ợu.
-Chị, một nữ sinh với tuổi thiếu thời nhiều mộng tưởng điên rồ và xuẩn ngốc, mới m¬ười bốn tuổi đã cả gan ngồi thu lu một mình sau tảng đá hàng giờ liền chờ đợi một người đàn ông đẹp nh¬ư các hiệp sĩ trong các sách tập đọc. Mối tình mộng tưởng nhưng:
“Hoa tươi những tiếc hoa tàn
Yêu không dám nói muôn vàn cũng không”
Để rồi chết tuổi thanh xuân , để rồi trở thành một cái bóng nham nhở và dài ngoẵng tự mình không thể thừa nhận nó là mình.
-Cô giáo Diệp , người đẹp nhất thung lũng, tươi vui thánh thót với bài giảng của mình, có một tình yêu bốc lửa với với một người lính. Cô có tội gì đâu mà lại bị chính học trò mình kết tội là đồ hủ hóa và rồi đã tự tìm đến cái chết được gọi là hy sinh trong tọa độ lửa!
-Còn chú bộ đội, phải chăng đã là “tráng sĩ một đi không trở về” để đến nỗi, dưới đáy va-ly của cô giáo Diệp có một bài thơ cô gửi cho người lính- Bài thơ “Đợi đến mùa hoa phượng” ấy đến giờ ông hiệu trưởng vẫn còn đang giữ.
Thương thay cũng một kiếp người! Kiếp người của bốn nhân vật như thế: Phải chăng như câu “triết ní” của ông hiệu trưởng: “Cuộc sống thì có gì béo bổ đâu”? Phải chăng vì cái thung lũng họ sống tù túng tối tăm tẻ nhạt?
Hay vì họ đã theo con đường: “Hạnh phúc là đấu tranh”?!