THỬ LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG THƠ CHẾ LAN VIÊN
TRẦN MẠNH HẢO
Lời dẫn : Trần Mạnh Hảo xin gửi đến blogs QUÊCHOA ( blogs cá nhân được nhiều người đọc vào loại nhất VN- như trang www.tranhuong.com
cũng vào loại web được xếp hàng đầu về số lượng độc giả) của nhà văn
Nguyễn Quang Lập hai bài viết về thơ Chế Lan Viên : 1- “ CHẾ LAN
VIÊN-NGƯỜI LÀM VƯỜN VĨNH CỬU”, 2- “CHẾ LAN VIÊN VÀ BA NIỀM SỬNG SỐT”.
Bài đầu có tên phụ là : “Chế Lan Viên – người muôn mặt”. Bài thứ hai có
tên phụ là : “ Chế Lan Viên và Phản Chế Lan Viên”. Chúng tôi thấy cư
dân trong chiếu rượu QUÊCHOA hầu như chưa hề đọc một bài phê bình thơ
nào trong cả trăm bài phê bình văn học của chúng tôi đã công bố từ 25
năm nay. Nay chúng tôi muốn quý vị cùng chúng tôi thử lý giải hiện tượng
thơ Chế Lan Viên , một nhà thơ lớn nhất thế kỷ thứ 20 của Việt Nam,
phức tạp và mâu thuẫn nhất trong các văn nghệ sĩ bậc thầy của nước ta.
Đối với riêng tôi, Chế Lan
Viên bao giờ cũng là một người anh lớn, một người thầy lớn, một thiên
tài thi ca và một tấm gương chịu học nhất nước, sắc sảo và uyên bác ít
ai bằng. Chế Lan Viên là một thi hào mà người yêu kẻ ghét ngang nhau.Những
người căm ghét Chế coi ông là hung thần chuyên đánh anh em để lập công
dâng đảng. Phe thù Chế Lan Viên chính là phe đổi mới theo ông Nguyễn Văn
Linh cởi trói cho văn nghệ và trí thức. ( Ông Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh đã công khai thừa nhận đảng trói văn nghệ sĩ và trí thức khá lâu
rồi, nay ta làm cách mạng cởi trói). Sau khi đảng thấy cởi trói cho các
nhà văn là hớ, là lợi bất cập hại, liền trói đám cầm bút lại cho dễ quản
lý. Chế Lan Viên đã thực hiện lệnh của đảng mà gây chiến với Nguyên
Ngọc và Hoàng Ngọc Hiến bằng đao pháp tưng bừng khói lửa trên báo Văn
Nghệ. Tất nhiên, kẻ chiến thắng là người của đảng. Mối thù của phe đổi
mới với Chế Lan Viên rất lớn, đến nỗi vì con người Chế mà họ toan phủ
nhận thiên tài thơ của ông. Chỉ sau khi Chế Lan Viên mất, ba tập thơ di
cảo khổng lồ của ông được nhà văn Vũ Thị Thường ( là vợ) công bố, trưng
ra một Chế Lan Viên khác, một Chế Lan Viên phản Chế Lan Viên, một Chế
Lan Viên dùng thơ để phản biện chính trị, để nói toẹt ra rằng ông đã bị
lừa ( bài “Bánh Vẽ”), ông đã có tội với nhân dân ( bài “Trừ đi”- các ông
Cộng vào thì Chế ta Trừ đi ), ông đã đi nhầm đường…
Sự nhận thức lại rất quyết
liệt này của Chế Lan Viên mà ông gọi là “Lộn trái”, là đảo chiều, là
phản nhận thức, phản siêu hình, phản đề, rất đúng với nguyên lý của
phép biện chứng Mác-xít, tôn trọng và đề cao yếu tố đối lập, yếu tố phản
đề, phản biện trong nhận thức luận : “ Mọi sự vật đều được cấu thành
bởi các mặt đối lập thống nhất”. Không có sự tham gia của đối lập trong
nhận thức, trong mọi hoạt động xã hội, được coi như là phản Mác-xít !
Sau khi ba tập di cảo thơ ra đời, hầu như phe đổi mới đã nhận thức lại
về Chế Lan Viên; rằng hóa ra Chế mới là tổ sư đổi mới; rằng Chế chỉ giả
vờ yêu đảng để yên thân mà viết di cảo thơ, lật lại con đường ông đã bị
đi chứ không phải được đi…
Trong đời mình, Chế Lan Viên
đã đánh nhiều người nhưng đã cứu nhiều người. Cuối năm 1974, trong rừng
miền Đông Nam Bộ, nhà thơ Thanh Thảo có in bài thơ “ Người lính nói về
thế hệ mình” trong báo Văn Nghệ Giải Phóng do nhà văn Anh Đức làm tổng
biên tập. Sau khi báo ra, ông Trần Bạch Đằng đọc bài thơ này của Thanh
Thảo, liền nổi trận lôi đình, quy kết bài thơ phản động, nối giáo cho
giặc. Thanh Thảo nguy to, có thể bị bỏ tù ngay trong rừng vì một ông “Tố
Hữu con” là anh Tư Ánh ( Trần Bạch Đằng) phán như thế. May quá, giữa Hà
Nội, Chế Lan Viên đọc bài thơ này của Thanh Thảo và thấy bài thơ rất
tốt, sao lại “giết nó”? Chế bèn tìm được chùm thơ khá hay của Thanh Thảo
gồm ngót chục bài, liền in tất tần tật trên tạp chí “Tác Phẩm mới” cứu
Thanh Thảo thoát án tù trong rừng Nam Bộ.
Năm 1982, trong trại viết văn
ở Vũng Tàu do Hội nhà văn VN tổ chức, chúng tôi ( TMH) có viết bài thơ :
“ Cho một nhà văn nằm xuống” nhân việc nhà văn Nguyên Hồng mất. Ngay
lập tức bài thơ lọt tới tay ông Hà Xuân Trường và ông Hoàng Tùng ( ông
HXT là ủy viên trung ương đảng, trưởng ban văn hóa văn nghệ trung ương,
ông HT ủy viên trung ương đảng, trong ban bí thư trung ương đảng) tuyên
bố phải bỏ tù tên phản động số một TMH ngay trong cuộc họp giao ban và
đưa tin lên báo; rằng ngày xưa đảng trao súng cho tên Hảo đi đánh Mỹ,
nay hắn dám dùng súng của đảng bắn vào đảng. TMH tôi biết chắc chắn mình
sẽ ở tù.
Chế Lan Viên là người đầu
tiên cứu chúng tôi bằng cách gọi điện đi khắp nơi cho các ông to. Ông
còn viết thư tay cho ông Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Tố Hữu ( đưa thư cho
chúng tôi đi gửi bưu điện ) nói đừng bắt thằng TMH, sẽ rất không tốt về
chính trị, rằng đảng sẽ bị mang tiếng xấu là đàn áp quá mức nhà văn chỉ
vì một bài thơ bất mãn ấm ớ…Ông viết cả thư cho Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ
gọi đi các nơi cứu thằng TMH. Trong thư viết cho HPNT, ông dùng hai câu
thơ của Đỗ Phủ thương Lý Bạch, khi Lý Bạch bị vua bắt đeo gong, đầy đi
Qúy Châu để nói về TMH đang lâm nguy : “ Thế nhân giai dục sát / Ngô ý
độc liên tài” ( mọi người đều muốn giết / Riêng lòng ta thương tài).
Chúng tôi còn giữ lá thư của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rất kỹ về việc
này. ( Việc chúng tôi thoát án tù năm 1982 còn do được nhiều “quý nhơn
phù trợ” ví như nhà thơ Lưu Tọng Lư, nhà báo Thép Mới, ông Võ Văn Kiệt
và ông Võ Trần Chí “hai ông này là Ủy viên Bộ Chính trị từng là Bí thư
thành ủy TP.HCM”…)…Vâng, Chế Lan Viên đích thị quê CHOA là người Quảng Trị, nơi “ Những đồi tranh ăn độc gió Lào”…
Xin bạn đọc vào hai bài chính :
CHẾ LAN VIÊN-NGƯỜI LÀM VƯỜN VĨNH CỬU
Trần Mạnh Hảo
Ông đang ngồi nấu cám heo trong bếp,
thấy khách tới, vội chạy ra mở cổng. Ông xin lỗi khách, chờ tí, vì nhà
đi vắng hết, vả nồi cám heo đang sôi ở mức cao trào. Với gương mặt mồ
hôi nhễ nhại, ông gân sức lực của người gần bảy mươi tuổi, ngoáy tít nồi
cám heo bằng chiếc đũa cả sừng sỏ dáng vẻ rất chuyên nghiệp, như thể
ông khiêu vũ cái vũ điệu của bếp núc.
Mới ngày hôm qua, từ cuộc hội
thảo văn học tại Bồ Đào Nha về, với bao nhiêu chuyện trên trời, dưới
đất, nào mây bay đi, nào hồn ở lại, nào các thiên hà có biết suy tưởng
hay không đến sự ô nhiễm môi trường ăn mòn nhân tính…
Vâng, từ chân trời của thơ ca thế
giới, với những hội nghị quốc tế, gặp gỡ đàm đạo với những nghệ sĩ lừng
danh, những khách sạn sang trọng, những bữa ăn đắt tiền… Chế Lan Viên
trở về với chân trời của riêng ông với gà heo, vườn tược và những bản
thảo dập xóa như vườn cây bị nghìn bão đi qua. Từ năm 1937, năm tập thơ
“Điêu tàn” ra đời cho đến ngày ông mất, Chế Lan Viên đã bày, đã soạn cho
người Việt Nam, cho văn hoá Việt Nam những bữa ăn thơ thịnh soạn, ngon
lành, trìu mến và sang trọng; chúng ta nào đã một lần biết được bếp núc
thi ca ông vất vả, tần tảo và cực nhọc biết bao. Vâng, đôi khi văn học
cũng cần phải có những nồi cám heo của mình, với những tro cùng trấu,
những củi cùng lửa, những muỗi cùng ruồi, những mồ hôi cùng nước mắt…
Đúng như nhà phê bình Hoài Thanh nhận xét từ năm 1941: “Giữa
đồng bằng văn học Việt Nam ở giữa thế kỷ hai mươi, Chế Lan Viên đứng
sừng sững như một Tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật… đột ngột xuất
hiện giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị…”. Từ độ 16 tuổi
đến lúc viên tịch, quả thực, Chế Lan Viên vẫn chắc chắn và lẻ loi, bí
mật, thậm chí sau khi hai tập thơ di cảo đồ sộ của ông ra mắt, ông vẫn
tiếp tục để lại sau mình vô vàn niềm kinh dị cho người đọc như lời tiên
tri của Hoài Thanh.
Như một lữ hành đơn độc, Chế Lan
Viên đã lầm lũi vượt qua sa mạc siêu hình, đi từ “thung lũng đau thương
đến cánh đồng vui” (đầu đề một bài viết của C.L.V.). Ra đến cánh đồng
vui rồi, sao đôi lúc gương mặt ông vẫn đầm đìa giọt khóc? Và thơ ông, kỳ
lạ thay, vẫn bàng bạc một nỗi đau như mưa phùn, như đom đóm, như thể
những vết thương xưa của ông chưa chịu khép miệng mà chúng đang ca hát.
Có lẽ, chính vì nỗi đau ma ám ấy, cái nỗi buồn thương định mệnh ấy đã
làm nên cái bất tử của tập thơ “Ánh sáng và phù sa” do Nxb. Văn học ấn
hành năm 1960, với số lượng phát hành kỷ lục: 6.070 cuốn. Tập thơ đã gây
một tiếng vang cực lớn thời đó, chỉ trong vài ba tháng đầu đã bán hết.
Có thể nói không ngoa rằng, “Ánh sáng và phù sa” đã thành cái mốc chuyển
biến quan trọng của thơ Chế Lan Viên nói riêng, của thơ Việt Nam nói
chung ( trong tập thơ còn một số bài dở vỉ chính trị thô thiển, ví như
bài : “Ngô tổng thống trong dinh thuốc độc”). Sau hai mươi lăm năm, kể
từ Thơ Mới ra đời, đến lúc “Ánh sáng và phù sa”, thơ Việt Nam đã xuất
hiện một thi pháp mới, một giọng điệu mới, một cách cảm nghĩ mới. Rất
tiếc, một tập thơ quan trọng như thế của thi ca hiện đại, ba mươi tư năm
rồi chưa được tái bản. Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, hầu
hết các nhà thơ trên dưới năm mươi tuổi sống trên đất Bắc, những bước
đầu chập chững làm thơ, đều có chịu ảnh hưởng của “Ánh sáng và phù sa”.
Cái chết, niềm hư vô và niềm cô
đơn là nỗi ám ảnh khôn cùng của thơ ông ngay từ thời niên thiếu. Tâm hồn
ông hầu như đã biến thành vỏ ốc của sự chết, để ngọn gió hư vô thổi vào
và ngân lên bài ca bi ai, hoan lạc của bản hòa tấu cô đơn. Mới mười
lăm, mười sáu tuổi, ông đã đi lại trên mặt đất như một cái Tháp Chàm.
Ông mơ trong cả khi tỉnh thức. Đôi mắt của hồn ông chỉ nhìn thấy thế
giới siêu hình, toàn là những bóng ma, những âm hồn phiêu dạt, những óc
phọt, những xương trào, máu cuộn. Ông coi cái thế giới bên kia mới là
đích thực hơn cái thế giới bên này, tin vào hư mà ngờ thực.
Rất may là trời chưa kịp ban cho ông đôi cánh. Nếu không, ông đã bay
lên tít mù xanh thẳm, biến thành tinh cầu vô định, nơi con người cũng
như thơ ca không còn một chút trọng lượng. Và vì chưa có đôi cánh, ông
đã coi vòm trời kia bất quá cũng chỉ là một bóng cây, các vì tinh tú
cũng chẳng khác gì một trái ổi:
“Kìa em trông một vì sao đang rụng
Hãy nghiêng mình mà tránh đi nghe em…”
(Đêm tàn)
Hãy nghiêng mình mà tránh đi nghe em…”
(Đêm tàn)
Ông hợp nhất mình với vũ trụ như
làn hương hợp nhất với vòm trời. Tuy nhiên, ông thừa biết trò chơi của
tạo hoá: vũ trụ vô tận kia cũng mong manh như một cánh phù dung, nên
khuyên người yêu cũng chính là để khuyên mình. Những vì sao chói ngời và
run rẩy kia, mi có thể rụng như sung vào tình yêu của ta bất cứ lúc
nào. Quả thực, mỗi ban mai, những vì sao kia rụng đâu hết cả. Và vì vậy,
chừng như những người đang yêu vì phải né tránh cái rơi rụng của các
tinh cầu, nên dáng đi của họ có vẻ nghiêng nghiêng, nếu không muốn nói
rằng như vệt nắng xiên khoai… Tuồng như Chế Lan Viên suốt đời phải đi
kiểu nắng xiên khoai như vậy, để né tránh các tinh cầu hư vô rớt xuống
từ bầu trời cô đơn, cắt rừng siêu hình ra mà tìm đến con người. Và khi
ông tìm thấy con người, ông đã gặp được nỗi đau. Nỗi đau ấy ông gọi là
hạnh phúc.
Những ngày hoàn tất tập thơ “Ánh
sáng và phù sa”, Chế Lan Viên vừa trải qua bệnh phổi nặng. Đến nỗi ông
tin rằng mình sắp chết. Chừng như niềm hư vô như một con mọt đang ăn
rỗng ngực ông như nó từng ăn rỗng cả vũ trụ. Bên cạnh đó, số phận đã bắt
ông phải uống chén đắng của cuộc tình tan vỡ, khiến ông gần như không
còn nơi bám víu nữa. Nhưng, ở bên bờ tuyệt vọng, ông đã may mắn gặp được
nàng thơ của mình. Nàng thơ đó có tên là cuộc sống.
Chừng như mỗi lần cái chết tính
gõ cửa hồn ông, ông lại có thơ hay. Có thể nói, trong phản ứng hoá học
của tư tưởng và cảm xúc để tạo ra một chất thứ ba là thi ca, cái chết
hầu như là một chất xúc tác kỳ diệu của Chế Lan Viên. Và những cơn đau
chính là nhiệt độ, là lửa để tạo ra phản ứng thi ca của ông. Ông đã có
những câu thơ rất hay về đất nước, về con người, những câu thơ ám ảnh
suốt một thời trai trẻ của tôi và nhiều bạn bè khác:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”
…
“Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ…”
…
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn”
(Tiếng hát con tàu)
…
“Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ…”
…
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn”
(Tiếng hát con tàu)
Đây là cái nhìn của ông, một người miền Trung về đất Bắc :
“Chỉ còn máu sông Hồng trong quả ngọt
Con chim ăn thấy vị phù sa trong tiếng hót”
(Giữa tết trồng cây)
Con chim ăn thấy vị phù sa trong tiếng hót”
(Giữa tết trồng cây)
Ông nhìn chân trời trong bài “Đọc Kiều”:
“Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên”
Ông nhìn thấy được tiếng chim và
nghe được mùi hương quả chín từ thẳm xa đưa tới, trong một tình thương
bình dị mà thẳm sâu đến sững sờ:
“Tiếng cu xa gáy đến phòng em
Bóng nhãn theo vào với tiếng chim
Bệnh yếu, em chưa về hái quả
Thương em, mùa lại đến đây tìm”
(Tiếng chim)
Bóng nhãn theo vào với tiếng chim
Bệnh yếu, em chưa về hái quả
Thương em, mùa lại đến đây tìm”
(Tiếng chim)
Quả thực, Chế Lan Viên có rất
nhiều thơ hay, tứ thơ hay, nhiều bài thơ tứ tuyệt tuyệt vời, vừa rưng
rưng sương khói cảm xúc, lại vừa chói lòa ánh sáng của trí tuệ. Ông tìm
thấy ánh trăng sao trong bùn đất, thấy cái tơ non ngay trong linh hồn đá
sỏi; thấy cái nước, cái lạnh trong lửa và ngược lại. Tôi đồ rằng ông đã
suy tưởng bằng trái tim và xúc cảm bằng bộ óc? Và vì vậy, Thượng Đế
chừng như đã cấu tạo nên cơ thể ông trong lúc Ngài mải làm thơ trong
trạng thái hưng phấn không bình thường, nên đã bỏ lộn trái tim ông vào
hộp sọ và đem bỏ hai bán cầu não ông xuống phía ngực trái?
Có người hận ông vì điều gì đó đã
cho rằng, tâm hồn của ông “Điêu tàn” thuở nào như vầng trăng non đã bị
gấu ăn hết. Rằng, Chế Lan Viên chỉ còn thuần có bộ óc. Rằng, ông chỉ làm
thơ bằng trí thông minh, bằng trò chơi ma giáo của chữ nghĩa…Do đó, thơ
ông trong suốt như nước phèn, không sinh vật cá tôm nào, thậm chí đến
cả phù sa cũng không sống nổi trong cái dung dịch thơ lý trí kia (!)
Không, vầng sáng của trí tuệ Chế Lan Viên đầy năng lượng sương khói, cái
lý trí đầy ắp bản năng của ông bao giờ cũng là mảnh vườn màu mỡ cho thi
ca sinh trưởng. Chúng ta thử đọc qua một bài thơ tứ tuyệt: “Tháp Bay-on
bốn mặt”, ông đề dưới là viết trong mùa bệnh 1988, xem ông viết bằng
trí thông minh hay viết bằng tình cảm :
“Anh là tháp Bay-on bốn mặt
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình”
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình”
Vâng, có thể ông đã viết bài thơ
này bằng trí thông minh, nhưng là trí thông minh của nỗi đau, của niềm
nhức nhối. Hồn ông hình như vẫn lảng vảng, lẩn khuất đâu đây như ánh
trăng, như hơi thở của ngôi nhà lý trí. Khi bài thơ đã đạt được sự hay,
nó không còn phân biệt đâu là tư tưởng, đâu là cảm xúc, đâu là xác, đâu
là hồn nữa.
Có người bảo Chế Lan Viên là
người hai mặt trong đời và hai mặt trong thơ. Người ta đã cố ý biến ông
thành con thò lò, thành con rối của thời thế, để đổ hết lỗi của những
người khác vào ông. Làm như chính ông đã gây ra những thảm hoạ, những bi
kịch của đời sống, những tráo trở bất nhẫn của kiếp người. Họ vẽ chân
dung ông ra thành con ngáo ộp của văn nghệ, chuyên bắt nạt và sát phạt
anh em ( cũng có một phần đúng) (!) Như bài thơ vừa trích dẫn, Chế Lan
Viên tuyên bố rằng ông như tháp Bay-on có đến bốn mặt cơ, phải giấu đi
ba mà chỉ bày ra một mặt. Đừng hiểu cái mặt này theo ý nghĩa chính trị.
Xét về ý nghĩa triết học, mỗi con người quả tình có đến nghìn muôn bộ
mặt giấu bên trong. Cái con người bên trong của chúng ta đã được tôn
giáo diễn đạt bằng tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay và dĩ nhiên phải hiểu
là có cả nghìn gương mặt. Vậy cái chuyện bảo Chế Lan Viên có hai bộ mặt
âu là chuyện thừa. Mỗi bộ mặt của hồn thơ ông hầu như quay về những
hướng khác nhau, kéo bản thể của ông đi về muôn phía, toàn là những phía
trái ngược nhau. Do đó, cái con người tinh thần của ông từng phút giây
đều phải đau cái nỗi đau đoạn trường của Vệ Ưởng bị bảy con trâu kéo nát
thịt da về bảy hướng. Nỗi đau chính là tình nhân đầu tiên và cuối cùng
của thơ ông :
“Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu
Ta đẻ ra đời sao khỏi những cơn đau”
(Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?)
Ta đẻ ra đời sao khỏi những cơn đau”
(Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?)
Từ “Điêu tàn” đến “Ánh sáng và
phù sa”, Chế Lan Viên phải mất gần hai mươi năm trăn trở, quằn quại, vật
vã trên con đường đau khổ như chữ dùng của nhà văn Nga A-lếch-xây
Tôn-xtôi. Ông đã phải bỏ đi, phải vượt qua cả một tập thơ của mình: “Gửi
các anh”. Tập thơ này hầu như không phải do chính tay ông viết, nhợt
nhạt và ấm ớ, giản đơn và tầm thường. Nó chính là một tập thơ đệm, một
trạm trung chuyển, một gã ăn theo. Cũng giống như trong các tập thơ hùng
vĩ của mình, đâu đây vẫn thấy thơ ông còn những bài đệm, những bài thơ
trung tính, trung bình, những bài thơ cảm xúc bò như sên và lý lẽ thì
phóng nhanh như tên lửa. Nhưng đó là chuyện bình thường, đừng vì một hạt
sạn bé con mà bỏ đi cả nồi cơm gạo tám thơm ngon.
Chế Lan Viên là một thiên tài. Mà
tất cả các thiên tài đều tự mâu thuẫn, nhiều giằng xé không sao giải
quyết. Trong ông, con sư tử và con nai ở chung với nhau, mèo phải hội
họp với chuột, cái ác và cái thiện là một cặp bài trùng chuyên môn cãi
lộn nhau, sự thuỷ chung và sự phản bội phải làm phép hôn phối trước vị
linh mục có tên là nhân tính. Ông phức tạp hơn cái người ta hiểu bội
phần. Thậm chí, cái sự phức tạp, nhiêu khê, rối rắm, thậm chí hỏa mù của
thế giới nội tâm mình, ông cũng không tự nhận thức nổi.
Trong cuộc chiến tranh thành
Troie của tư tưởng nhập cuộc, của hành động dấn thân chống lại cái tình
cảm hồng hoang mù sương của tầng tháp cổ, của bóng ma trơi siêu hình,
siêu tưởng, tâm hồn ông bao giờ cũng là một bãi chiến trường đầy ắp
thương vong và chiến tích. Nói cho cùng, cuộc đời của một thi sĩ kể ra
cũng chẳng lấy gì làm sung sướng, toàn là đau dùm và khổ mượn, lấy nỗi
buồn của chim sa cá nhảy làm nỗi buồn của chính mình, dại dột cõng vòm
trời trên lưng như cõng một em bé, để rồi ấm ớ luôn hồ nghi, luôn tự hỏi
mình đang đi, đang sống đây hay là một đám mây, một quầng lau trắng?
Từ “Ánh sáng và phù sa” rồi qua
các tập thơ lừng danh: “Hoa ngày thường – chim bào bão”, “ Đối thoại
mới”, “Hái theo mùa”, “ Hoa trên đá”… và hai tập thơ di cảo, Chế Lan
Viên luôn luôn phải đơn độc chống trả với thế giới siêu hình. Ghét của
nào trời trao của đó, cố gắng đến cạn sức lực để chống lại cuộc chiến
tranh không giới tuyến, mà đám giặc-siêu-hình kia luôn luôn “mờ mờ nhân
ảnh như người đi đêm”, nên Chế Lan Viên đến phút lìa đời vẫn không thoát
khỏi ám ảnh siêu hình. Bởi vì, cái siêu hình kia nó không nằm ở ngoài
ông, mà nó tồn tại, nó đóng tổng hành dinh trong chính tâm hồn ông,
trong tốc độ vũ trụ của tư duy ông, nó bày binh bố trận trong hơi thở,
trong cái nhìn bản năng ông. Cái mà trong đoạn thơ dưới đây trích trong
bài thơ “Gió lật lá sen hồ” ông viết năm 1988, tức là trước khi mất một
năm, ông gọi là “ai đó”. Bởi, “ai đó” cứ ném thia lia trong hồn ông:
“Gió thổi lá sen hồ lật lại phía bên kia
Phía ấy gọi anh về
Về đâu chưa biết nữa
Chỉ biết hồn anh lật lại cùng với gió
Ở trong hồn ai đó ném thia lia”
Phía ấy gọi anh về
Về đâu chưa biết nữa
Chỉ biết hồn anh lật lại cùng với gió
Ở trong hồn ai đó ném thia lia”
Ôi cái phía bên kia, cái phía gọi
anh về, chắc là ông đã linh cảm được phía ấy, nhưng vì sợ nên chưa gọi
thẳng tên nó ra mà thôi. Cái phía bên kia của mặt trăng, cái bên kia của
thế giới có tên là cái chết. Mà cái chết với Chế Lan Viên chính là tên
gọi thứ hai của cõi siêu hình. Từ bỏ cõi siêu hình trở về cõi thực, Chế
Lan Viên hầu như đã phải chết đi một con người, cứ tưởng ông đã hồi sinh
thành một con người khác. Ai dè, sau những cơn vui chiến thắng, sau
những hò reo, những hoan hô, ca tụng, những hạnh phúc đầm đìa khóe mắt,
ông lại trơ ra chỉ còn lại một mình với con mọt hư vô đang từng ngày gậm
nhấm cuống phổi mình như chuột gặm. Mà suốt mấy chục năm reo cười, hò
hát bản anh hùng ca thời đại hết sức tuyệt vời, hết sức chân thành, cảm
động nhưng đôi khi cũng lại ngô nghê, sống sượng và vờ vịt, riết rồi
cũng mệt, riết rồi cũng khản tiếng, tàn hơi. Nói cho cùng, niềm vui hầu
như không có khả năng tạo ra thế giới; chỉ có tiếng cười hềnh hệch như
pháo tết đâu có thể tạo ra nghệ thuật. Vâng, cuộc đời thực kia, ông đã
yêu đến cạn cùng hai lá phổi, yêu như “đêm xuân người vợ trẻ yêu chồng”,
yêu đến nghẹn thở, đến cuống quýt, ồn ào. Tuy nhiên, chạy một mạch mấy
chục năm như con trẻ chạy theo con diều giấy, Chế Lan Viên đột ngột dừng
lại suy nghĩ về cái thế giới “danh vọng ầm ào, vinh quang xí xố”! Và,
nói đi rồi cũng phải nói lại mới toại lòng nhau, chẳng ai nỡ bắt bẻ một
thi sĩ suốt đời cúc cung tận tụy cho lý tưởng, khi chợt một ngày nào đó
trước nỗi chết, ông theo phép biện chứng mà lộn trái các sự vật:
“Xưa nghiêm túc, nghiêm trang
Giờ nửa khôn, nửa dại
Lộn lèo trong gió trái”
Giờ nửa khôn, nửa dại
Lộn lèo trong gió trái”
…“Chơi trò hề lăng nhăng
Bớt cái điều trọng đại”
Bớt cái điều trọng đại”
…“Bắt chước đào lộn hột
Vỏ tâm hồn lộn tuốt
Bớt bớt điều kiêng khem”
(Lộn trái – 1988, ba hôm trước ngày lật trái phổi ra cắt)
Vỏ tâm hồn lộn tuốt
Bớt bớt điều kiêng khem”
(Lộn trái – 1988, ba hôm trước ngày lật trái phổi ra cắt)
Cuộc đời thì vui vẻ thế, cớ sao thời thế lại hắt hiu như một người đánh cờ với chính bản thân mình: “Để anh chơi chỉ có một mình”. Nhà thơ chợt buồn đến lặng cả người khi: “Chả hiệp sĩ nào buồn xách gươm lên ngựa / Gươm muốn làm lành cùng cối xay”. (Don Quichotte). Chế Lan Viên đã đi, đã chạy, đã bay mà không đuổi kịp chân trời: “Vọng phu tình ái, vọng phu thơ, vọng phu lý tưởng”. Bởi ông hiểu thấu cái nỗi đời trớ trêu, tưởng được đó mà mất đó, vừa thấy TẠO xong, đã HOÁ liền:
“Ai có một chân trời
Và mất gì sau đó phía chân mây?”
(Vọng phu)
Và mất gì sau đó phía chân mây?”
(Vọng phu)
Ngỡ đã tới đích của đời, ai dè
đấy lại là khoảng trống vô cùng của hư vô, cái lỗ kim siêu hình mà cả
đời ông chạy theo xâu chỉ hiện thực:
“Tôi như người xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt
Chỉ đã lọt rồi, kim bỗng lùi xa
Tôi đã bước lên một bước, Kim lùi thêm một bước”
(Hồi ký bên bàn viết)
Chỉ đã lọt rồi, kim bỗng lùi xa
Tôi đã bước lên một bước, Kim lùi thêm một bước”
(Hồi ký bên bàn viết)
“Có lúc chỉ lọt vào rồi lại sẩy
Xâu vừa xong gió tuột nửa chừng
Lỗ kim…lỗ kim trước mắt”
(Xâu kim)
Xâu vừa xong gió tuột nửa chừng
Lỗ kim…lỗ kim trước mắt”
(Xâu kim)
Giờ đây, ở thế giới bên kia, bằng
sợi chỉ duy vật, hẳn là Chế Lan Viên đã xâu được cái lỗ kim tôn giáo,
cái lỗ kim vô hình mà con lạc đà trong Kinh Thánh không thể nào chui
lọt. Cái lỗ kim ấy cũng có tên là chân trời, là xa vời lý tưởng, là cõi
đích thực của cái đẹp vĩnh hằng; nơi sinh thời, suốt bảy mươi năm, ông
đã kéo bản thân mình ra thành sợi chỉ, lầm lũi và đăm đăm hướng tới như
con chiên hướng về tín ngưỡng của mình. Nhưng chừng như tất cả đều vô
vọng, tất cả còn vẫn ở đâu đâu. Phép lạ, có lẽ chỉ có khả năng xảy ra
sau khi ta ngừng thở. Rốt ráo, tính nhân văn cao cả của thơ Chế Lan Viên
chừng như đọng lại thành phù sa, thành ánh sáng ở chỗ này đây. Ông ví
mình như con ong của thời thế, đến đây yêu xong là chết, vất vả cực
nhọc, cúc cung tận tụy, tận hiến, tận trung, tận tình mà chẳng hề mang
về cho mình một chút gì ngoài niềm đau, thi ca và cái chết : “Làm nên mật đạo đức / Chả hút gì ở môi”.
Sinh thời, ông không hề ta thán oán trách gì, đòi hỏi mè nheo gì.
Nhưng, đối với thời đại này, ông quả là một đại công thần về văn hóa.
Ông đã đi hầu khắp thế giới, trừ có Mỹ châu, để làm người thuyết khách,
người rao giảng của cách mạng, của cuộc kháng chiến cứu nước. Trong thời
chống Mỹ, tùy bút “Những ngày nổi giận” có sức mạnh tinh thần của cả
mười đạo binh. “Những bài thơ đánh giặc”… của ông có sức mạnh ngang hàng
với sức mạnh của những dàn tên lửa Sam một, Sam hai. Sự đóng góp của
ông thật vô cùng to lớn. Thế nhưng, ông được đãi ngộ cái gì? Ông chưa hề
được cấp nhà một lần trong đời, không bao giờ có được cái điện thoại.
Cho đến khi mất, ông chưa hề được những nhà xuất bản nhà nước tái bản
một cuốn sách nào. Ông sống đạm bạc mà thanh cao, tự tại nơi khuất nẻo
xa xôi trong góc ngoại ô phía Tân Bình. Đến nhà ông mùa mưa thì lầy lội,
mùa khô thì bụi mù. Ngôi nhà của ông quá đỗi đơn sơ, chẳng có gì quý
giá ngoài trang bản thảo.
Nhưng con người ông với tất cả
nội lực phi thường, vẫn thung thăng đi tiếp về phía chân trời của triệu
người, từ chân trời tháp cổ cô đơn của mình như lời khuyên của P.
Eluard. Ông là người “ăn cây nào rào cây nấy”, chẳng như ai kia “được
ăn, được nói, được gói mang đi, được hòn chì ném lại “. Thế mà có lắm
người cuống cả lên, làm như Chế Lan Viên đã ăn hết lộc của thiên hạ. Ông
ăn gạo nhà Chu và ông có bổn phận rào cây lúa nhà Chu. Bá Di, Thúc Tề
lên rừng ăn lá ư? Nhưng rừng kia cũng vẫn của nhà Chu cơ mà? Điều đó
giải thích thái độ quyết liệt, thậm chí riết róng, dữ dằn đằng đằng sát
khí của ông trong hàng loạt bài tiểu luận về quan điểm nghệ thuật khi
phải tranh biện, cãi vã. Và vì vậy, có khá nhiều người không ưa ông, rồi
không ưa luôn cả thơ ông nữa. Nhưng ở đời, cái gì ra cái ấy, sự nghiệp
thi ca đồ sộ của ông đã thành tài sản chung của dân tộc. Ông có thể vay
trả, ân oán với người đời ở chỗ khác; nhưng với thơ, ông mãi mãi là cây
đại thụ của thế kỷ hai mươi trong lịch sử văn học nước nhà. Có thể ông
đúng. Cũng có thể ông sai. Nhưng ông có quyền bảo vệ những quan điểm
chính trị của mình. Chỉ có điều thuộc về tính khí, trong tranh biện, ông
là người đôi khi truy đối phương tới cùng, quyết không cho đối phương
đứng lại thở. Vâng, mỗi con người đều có những khiếm khuyết để tồn tại,
huống hồ ông lại là một tài năng lớn, một người tầm cỡ mang trong mình
tất cả thiện ác của thời đại, tất cả nghịch lý của kiếp người, cái mâu
thuẫn không sao giải quyết của số phận. Trong bài thơ “Từ thế chi ca”,
ngay cả khi trăn trối mà ông còn đáo để:
“Những kẻ nguyền rủa anh sẽ buồn
Chả còn anh cho họ giết
Dao sẵn rồi họ không dễ để yên”
Chả còn anh cho họ giết
Dao sẵn rồi họ không dễ để yên”
Chế Lan Viên, xin ông hãy yên trí
làm vườn lan nhà họ Chế ở bên kia biển, bên kia trời siêu hình; bởi
trên đời này, người yêu ông, kính trọng và khâm phục ông nhiều vô kể.
Những người không ưa ông còn ở trong quá khứ. Nhưng ông và thơ ông đã
bay về phía tương lai của con người!
Chế Lan Viên là người Mác-xít.
Vâng, cả Picasso, Romain Rolland, Eluard, Aragon, Néruda…cũng đã từng là
người Mác-xít ( nhưng cuối đời họ đã từ bỏ Mác-xít). Điều kiện tiên
quyết để trở thành người Mác-xít là phải theo chủ nghĩa vô thần. Nhưng
Chế Lan Viên lại cho rằng con người có linh hồn và khi chết rồi, linh
hồn con người bất tử. Ông trăn trối lại cho vợ con sau khi ông chết, hãy
đốt xác ông, lấy tro đem gởi vô chùa. Và như vậy, chết rồi ông mới đi
tu, mới trở về với Phật mà khi sống ông không ngớt hồ nghi. Tôn giáo là
nỗi ám ảnh khôn nguôi suốt một đời ông sống. Nhà Mác-xít Chế Lan Viên tự
mâu thuẫn với nhà Phật học Chế Lan Viên. Như trên đã nói, ông tập trung
mọi nghịch lý, mọi mâu thuẫn của thời đại quá nhiều tôn giáo mà thiếu
đức tin này. Đúng như lời của Jiri Wolker: “Qua nhà thơ, người ta thấy
tầm cỡ thời đại mà ông ta sống”. Chế Lan Viên chính là một thời đại của
thi ca của lịch sử xã hội Việt Nam trong thế kỷ đầy đau thương, bi hài
kịch mà đầy hùng khí, đầy mê muội hèn hạ xấu xa. Tráng ca, anh hùng ca
cũng là ông, mà bi ca, khốc ca cũng lại chính là ông. Điều đó làm ta dễ
hiểu khi đọc những bài thơ làm giật thót mình các phía như bài “Trừ đi”
và “Bánh vẽ” ( Sẽ đọc sau bài này); thậm chí có nhà chính trị cực đoan
còn bảo họ Chế thực chất là “phản động ngầm”. Phàm con người muốn biện
chứng phải biết phản biện, muốn tin tưởng, cần phải học được cách nghi
ngờ. Mác cũng từng khuyên người trí thức luôn phải biết nghi ngờ. Bởi vì
khoa học chỉ có thể là chính nó, khi nó tồn tại trong niềm nghi hoặc
của con người. Suốt một đời đi xuôi, trước lúc lìa đời, con người cần
phải đi vài bước ngược lại, quay lại một chút mà ngẫm nghĩ, mà suy tưởng
về thân phận mình. Vì vậy, chúng ta càng yêu ông hơn vì cái nỗi đau
đời, cái nỗi buồn tủi, cái niềm biết thân, biết phận của mình rất chi là
người, là trần gian, rơm rác, bụi bặm, đời thường :
“Anh đẽo tâm hồn thành con rối để yêu em
Anh hoá gỗ, hoá dây, hoá dại khờ, ngũ sắc
Tuồng tích ấy chú rối mình đủ khóc
Cần chi bàn tay nào đến giật giật dây thêm
Anh hoá gỗ, hoá dây, hoá dại khờ, ngũ sắc
Tuồng tích ấy chú rối mình đủ khóc
Cần chi bàn tay nào đến giật giật dây thêm
Anh rối nước muốn lên bờ cùng rối cạn
Em đi xa, ao thương nhớ hoá đầy
… Anh đứng giữa lệ mình trơ trơ không dám khócEm đi xa, ao thương nhớ hoá đầy
Vui nỗi gì khán giả vỗ ran tay?”
(Rối cạn và rối nước)
Bài thơ làm nhức nhối người đọc,
huống hồ là người viết ra nó phải đau, phải nhân tình thế thái biết là
chừng nào. Nói về mình khi chưa gặp cách mạng, Chế Lan Viên viết: “Lòng ta thành con rối / Cho cuộc đời giật dây”.
Ngày đó ông mới vừa hai mươi lăm tuổi, sân khấu đời ông đã kịp diễn gì
đâu? Con rối ấy hoạ có chăng là rối siêu hình? Còn giờ đây, con rối nước
xưa đã bò lồm ngồm lên cạn như ếch nhái, để lại diễn đủ trò như con rối
cách mạng cho thiên hạ vỗ tay. Còn mình thì vẫn rối như sợi chỉ hiện
thực trước lỗ kim vô cùng?
Càng gần tới cái chết, thơ ông
viết càng hay, càng bớt chất luận đề, chính luận, càng thêm cảm xúc và
sâu đọng. Hầu hết các nhà thơ mới, kể cả Xuân Diệu, Huy Cận, cái phần
thơ hay nhất, đóng góp lớn nhất cho thi đàn lại là những thi phẩm ra đời
trước năm 1945. Chỉ có Chế Lan Viên và phần nào Tế Hanh, mà những trước
tác sau này thậm chí còn đồ sộ, còn hay hơn nhiều thời tiền chiến. Sau
Thơ Mới, ông đã làm cho Thơ Mới được mới thêm một lần nữa. Đấy chính là
sự đóng góp có tính tiền phong, tính mở đường của thơ Chế Lan Viên cho
thời đại thi ca mới. Chính ông mới là nhà thơ hiện đại đúng nghĩa nhất
của nó.
“Lòng ta mục đồng / Cũng đi chăn đấy”… … “Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu”.
Do đó, đôi khi thi ca cũng cần được tung tăng hồn nhiên như con nghé ọ.
Nhà thơ không cưa sừng làm nghé, vì tâm hồn ông đã được thả rông trên
đời này để có lúc vừa ăn cỏ của đời sống, vừa uống nước sông Ngưu siêu
hình của trời xanh:
“Con trâu nghé ọ
Có cặp sừng bỡ ngỡ
Chiều buồn không biết cọ vào đâu”
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh -1988)
Có cặp sừng bỡ ngỡ
Chiều buồn không biết cọ vào đâu”
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh -1988)
Câu thơ viết như chơi, viết như
đùa, như không mà hay đến nghi hoặc. Yêu biết bao nhiêu cái cặp sừng non
bỡ ngỡ của thi ca. Này con nghé ọ, mi đang cọ sừng vào cõi hư vô mà
chẳng biết. Nhà thơ bảy mươi tuổi nhưng thi ca của ông sinh ra muôn đời
phải là con trẻ, phải là con nghé ọ của đời. Con nghé thơ sẽ lớn thành
con trâu kéo cày trên cánh đồng văn học. Và, trâu thơ ơi, sau khi người
chết đi, người đời sẽ mượn da người làm trống, để đánh lên nhịp nhảy,
nhịp sống của con người. Và trâu thơ ơi, xin mi để lại cặp sừng làm
chiếc tù và báo động. Đi từ cặp sừng non của con nghé đến chiếc tù và
của con trâu, Chế Lan Viên vẫn tiếp tục cất lên tiếng trống, tiếng tù
và, báo hiệu một ngày mới trên cánh đồng vĩnh cửu c a thi ca…
Thành phố Hồ Chí Minh 3 giờ sáng 22/5/1994
XIN ĐỌC THÊM HAI BÀI THƠ TRONG DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN
Trừ đi
Chế Lan Viên
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau – giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm – giết một ước mơ – tôi giết
Cái cánh sắp bay – trước khi tôi viết
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển – Giết mưa
Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi.
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – Người có lỗi
Đã phải giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình
(Tạp chí Văn, Paris 1992)
Bánh vẽ
Chế Lan Viên
Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc…
Thế thì còn dịp đâu nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi
Họ cũng ngồi thôi
Nhai nhồm nhoàm
(Prométheé 86, Văn học và Dư luận, 8-1991)
CHẾ LAN VIÊN VÀ BA NIỀM SỬNG SỐT
Nhưng ở Chế Lan Viên, với “ ba tập thơ di cảo khổng lồ của ông được nhà văn Vũ Thị Thường ( là vợ) công bố, trưng ra một Chế Lan Viên khác, một Chế Lan Viên phản Chế Lan Viên, một Chế Lan Viên dùng thơ để phản biện chính trị, để nói toẹt ra rằng ông đã bị lừa ( bài “Bánh Vẽ”), ông đã có tội với nhân dân ( bài “Trừ đi”- các ông Cộng vào thì Chế ta Trừ đi ), ông đã đi nhầm đường…”. Tạm gọi ba tập di cảo khổng lồ đó là “Thơ phản thơ Chế Lan Viên”. Đây cũng là một nét rất đặc biệt trong con người nhà thơ Chế Lan Viên.
2. Ngay từ khi “Điêu tàn” mới ra đời, Trương Tửu là người đầu tiên đã lý giải hiện tượng Chế Lan Viên, một trong bốn nhà thơ của nhóm “Bàn thành tứ hữu” hay “Nhóm thơ Bình Định”, theo cách gọi của người đương thời còn theo cách gọi của chính họ là “Trường thơ loạn” (1936), gồm Chế Lan Viên, Quách Tấn, Hàn Mặc tử và Yến Lan. Trong tứ hữu thì Hàn Mặc Tử đã qua đời năm 1940, Quách Tấn thì từ 1945 đến 1954, cùng gia đình tản cư về Bình Định, làm ủy viên Ủy ban ủng hộ kháng chiến, thủ quỹ Mặt trận Liên Việt huyện Bình Khê. Sau 1954, ông hồi cư về Nha Trang đi làm công chức tại Qui Nhơn, có lúc làm Phó tỉnh trưởng Bình Định, Công Ty du lịch Huế, Phó tỉnh trưởng Khánh Hòa. Chỉ có Chế Lan Viên và Yến Lan là đi theo cách mạng trọn đời
Trong bài “Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên”, sau khi chép lại một đoạn trong bài Tựa tập thơ Điêu tàn (1937) do chính Chế Lan Viên viết:
“Hàn mặc Tử viết: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người mơ, Người say, Người điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu, Nó thoát Hiện Tại. Nó xáo trộn Dĩ vãng. Nó ôm trùm Tương Lai.”
Trương Tửu nhận định: “Ông Chế Lan Viên đã khách quan hóa cái chủ thể của ông. Nên ông lầm. Vì thi sĩ bao giờ cũng có khuynh hướng chủ quan hóa cái khách thể của sự vật. Ông đã rời bỏ khuynh hướng ấy. Ông đã phản cái bản tính thiên bẩm của mình. Ông có tội với Nàng Thơ.”
Trong bài “ Một thi sĩ của Điêu Tàn” Trương Tửu lại nói: “ Ông Chế Lan Viên đã quên mất cái Ta, chỉ còn sống trong cái Mê.”.
Nếu như nhận định của Trương Tửu là đúng thì sau những cơn mê trong “Điêu tàn”, Chế Lan Viên mê tiếp trong “Ánh sáng và phù sa” rồi mê “trói đám cầm bút lại cho dễ quản lý” Sau khi đảng thấy cởi trói cho các nhà văn là hớ, là lợi bất cập hại. Chỉ đến cuối đời mình ông mới tỉnh và nhớ đến cái Ta và với cơn tỉnh này ông đã để lại cho đời ba tập thơ di cảo khổng lồ , nghe nói có cả ngàn bài thơ di cảo, cũng là lẽ tât yếu của một thi sĩ của Điêu tàn.
3. Tôi có cảm nhận rằng, ông Trần Mạnh Hảo đã lý giải rất trúng trong hình ảnh “con nghé thơ” rồi “con trâu thơ”
Khi là con nghé thì ăn cỏ đồng xa hay ăn cỏ đồng nhà là tùy vào người chăn dắt. Khi thành con trâu thì cày đồng đang buổi sớm, buổi hôm hay đang buổi ban trưa; cày đồng sau hay đồng cạn là tùy vào người chủ cày.
Lại có người lại ví nhà thơ như con ngựa kéo cỗ xe văn nghệ, thế thì cỗ xe nặng nhẹ ra sao, phải kéo trên con đường bằng phẳng hay con đường khấp khểnh gập ghềnh cũng lại tùy vào người xà ích.
Chế Lan Viên không nói mình là con nghé hay con trâu, con ngựa kéo xe, mà nói: “Lòng ta mục đồng / Cũng đi chăn đấy”… “Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu”. Là mục đồng hay là nhà thơ cưỡi trâu thì cũng phải cùng trâu đến những nơi được phép của lệ làng mà thôi.
4. Chỉ với một tập thơ “Điêu tàn”, ba tập di cảo đồ sộ và một cuộc đời “chưa hề được cấp nhà một lần trong đời, không bao giờ có được cái điện thoại. Cho đến khi mất, ông chưa hề được những nhà xuất bản nhà nước tái bản một cuốn sách nào. Ông sống đạm bạc mà thanh cao, tự tại nơi khuất nẻo xa xôi trong góc ngoại ô phía Tân Bình.”. Chỉ ngần ấy thôi, cũng đủ để chúng ta trân quý Chế Lan Viên, thương cảm Chế Lan Viên, ngưỡng mộ Chế Lan Viên.
Chắc giờ này ở cõi vĩnh hằng, Chế Lan Viên cũng mỉm cươi vì mình đã phản tỉnh sáng mắt sáng lòng, không chỉ cho riêng mình mà cho biết bao người đời nữa!