Nhớ Phan Tứ
Mình
đọc văn Phan Tứ thời bé, đọc vì tò mò muốn biết chuyện chiến đấu miền
Nam, chuyện chiến đấu ở Lào, anh ra cuốn gì đều đọc ngấu nghiến cuốn đó.
Sướng nhất vẫn là cuốn Trước giờ nổ súng.Văn chương thời đó mà tả yêu đương lãng mạn, lại còn nói chuyện phản bội là ghê lắm, có lẽ trong vòng chục năm, kể từ năm 1960, đó là cuốn tiểu thuyết hay nhất.
Thời đó Phan Tứ lấy tên thật là Lê Khâm, kể từ cuốn Về làng anh mới lấy bút danh là Phan Tứ, dù thế nào mình cũng tiếc cái tên Lê Khâm, nó hay hơn tên Phan Tứ, nhất là sau cuốn trước Trước giờ nổ súng cái tên Lê Khâm đã đóng đinh vào trí nhớ nhiều thế hệ bạn đọc miền Bắc rồi.
Vì thế mới có chuyện thầy giáo
của mình khoe là bạn học với Lê Khâm, mình biết ông nói phét chứ Lê Khâm
học Đại học tổng hợp từ năm 1958 còn thầy thì học sư phạm Việt Bắc năm
1968. Mình nói thầy có quen Phan Tứ không, thầy nói Phan Tứ học trước tớ
hai năm, nhưng quen thân nhau lắm.
Bốc lên thầy còn khoe một hôm
thầy ngồi uống rượu nói chuyện với Lê Khâm và Phan Tứ, thầy phê bình Lê
Khâm về tính tiêủ tư sản trong tiểu thuyết Trước giờ nổ súng. Thâỳ nói Lê Khâm không chịu nhưng Phan Tứ thì gật gù khen tớ nói đúng.
Hi hi thầy bà nước mình vui lắm,
nhiều người chỉ chờ lên lớp là tán phét tôi ngày xưa thế này, tôi ngày
xưa thế kia, kì thực dạy Kiều không đọc hết Truyện Kiều, dạy Chinh phụ ngâm không biết cuốn Chinh phụ ngâm ngang hay dọc. Thôi không nói chuyện này nữa, kể chuyện Phan Tứ cho vui.
Năm 1982 mình đóng quân ở Phước
Tường ( Đà Nẵng) vẫn hay qua lại Hội Văn nghệ tỉnh chơi, quen anh Quốc (
Bùi Minh Quốc), anh Quế ( Thanh Quế) chị Cúc ( Ngô Thị Kim Cúc) đã lâu
nhưng Phan Tứ thì chưa gặp. Một hôm đang ngồi quán cà phê cạnh Hội, thấy
một ông già già nho nhỏ gầy gầy, áo bỏ vào quần gọn ghẽ, đi dép cao su
đeo đủ bốn quai, cái ca táp khóac chéo quai ngang ngực lúi húi đi vào,
anh Quế nói Phan Tứ đó kià, mình quá ngạc nhiên.
Đọc Mẫn và tôi mình cứ
hình dung anh như nhân vật Thiêm, đẹp trai sang trọng, nhã nhặn ôn hoà,
linh lợi hoạt bát, chẳng ngờ anh y chang ông trưởng thôn lên tỉnh họp.
Anh bắt tay mình, nói Lập còn trẻ quá nhỉ rồi quay sang bàn việc Hội với
anh Quốc, anh Quế, bàn xong thì đi, không hề nói chuyện văn chương. Nói
chung bốn năm gần anh chưa bao giờ mình nghe anh tán gẫu được dăm câu,
lúc nào anh cũng có vẻ vội, không hề thích đàn đúm.
Anh Quốc nói ở nhà ông còn răm
rắp hơn, thức dậy giờ nào, thể dục giờ nào, ăn sáng giờ nào, uống thuốc
bắc giờ nào, nghe đài ta giờ nào đài địch giờ nào, vào bàn viết giờ
nào… tuyệt không sai một khắc.
Mình cười hì hì, nói ngủ với vợ
chắc cũng đúng giờ luôn nhỉ. Anh Quế nói chớ sao, đến vệ sinh giờ nào đi
xia giờ nào đi tiểu ông còn rèn cho đúng giờ được nữa là. Mình thè lưỡi
rụt cổ, nói sợ quá sợ quá.
Anh Quốc đập tay cười kha kha
kha, nói được rồi, khi nào tôi chuốc ông Phan Tứ món rượu kích dục xem
thử ông có đúng giờ được không. Anh Quế nhăn răng cười, nói hay hay,
nhưng mà thua ổng thôi, ổng lập trường vững vàng lắm, chưa đúng giờ thì
có dí bướm vào mũi ổng vẫn không xao xuyến.
Có lẽ nửa đời trong quân ngũ,
sống trong môi trương gian khổ khắc nghiệt đã rèn cho Phan Tứ một nếp
sống rất lính, chặt chẽ ngăn nắp đến từng li. Anh đặt chỉ tiêu một tháng
một cái truyện ngắn, hai mươi trang tiểu thuyết cứ thế mà răm rắp. Nhờ
thế anh có gần chục ngàn trang in, chưa kể 50 cuốn nhật kí dày cộp, nếu
in ra cũng chục ngàn trang in là ít.
Anh viết nhật kí đều đặn đúng giờ
như người ta phải ăn cơm đúng bữa, viết bằng ba thứ tiếng Lào, Nga và
Pháp, thêm tiếng Việt nữa là bốn. Mình đến nhà chơi, thấy chồng nhật kí
cao ngất của anh mà hoa mắt, lại còn viết bằng ngoại ngữ mới thất kinh.
Anh nói viết ngoại ngữ để rèn kĩ năng ngoại ngữ, với lại nhỡ có rơi vào
tay địch hay tay ai cũng đỡ phiền. Phục anh quá chừng.
Nghe nói trước khi viết cái gì
anh đều làm đề cương chi tiết đưa bạn bè đọc, cấp trên xem xét, cho góp
ý xong thì mới bắt tay vào viết, rất nghiêm túc. Có lẽ vì thế văn anh
càng về sau càng thấy hợp lý, mọi thứ đều đâu vào đấy nhưng mà đọc mất
sướng.
Đối với lớp trẻ anh rất ân cần
thương mến nhưng ít khi anh nói chuyện văn chương, chưa khi nào anh hỏi
mình cậu thấy truyện này truyện kia của tớ thế nào. Tuồng như anh biết
văn anh là thế nào, đang ở đâu, có hỏi cũng chỉ nghe nói dối mà thôi.
Một hôm mình nói anh Tứ chẳng khi
nào nói chuyện kinh nghiệm viết lách cho tụi trẻ các em nghe cả. Anh
mỉm cười, nói các cậu bây giờ thành sư cả rồi, cái mà mình cho quan
trọng thì các cậu cho vớ vẩn, cái mà các cậu cho là ghê gớm thì mình coi
chẳng ra gì. Cho nên mạnh thằng nào thằng đó cứ viết, thằng hót thằng
hét thằng hát văn đàn Việt mới hay lên được.
Thích nhất vẫn cái tính kĩ lưỡng
chi tiết của anh. Trong cái tạp dề của anh có hộp kim với năm bảy loại
kim dài ngắn to nhỏ. Chỉ cũng năm bảy loại và một hộp cúc có đến mấy
chục cái cúc khác nhau. Mình nói biết là anh có tính phòng xa nhưng anh
mang theo nhiều loại kim chỉ làm cái gì, lại còn cúc mấy chục loại nữa,
không lẽ áo quần anh nhiều loại cúc thế à. Anh nói mang phòng nhỡ có ai
tuột chỉ đút cúc thì có dùng chứ áo quần mình có mấy đâu.
Đi đâu mà có Phan Tứ đi cùng khỏi
lo gì hết, kể cả chuyện vặt ít ai nghĩ tới anh cũng đã tính rất kĩ.
Mình nhớ mãi chuyến đi chơi dọc sông Thu Bồn có anh đi cùng. Hôm ấy có
đông người lắm, mấy chục người cả thảy văn thơ nhạc hoạ đủ hết, danh sĩ
Bắc Trung Nam ngồi đầy một chiếc thuyền lớn.
Đến khúc sông cạn, nước trong
vắt, mọi người cắm thuyền giữa dòng, ai thích tắm thì tắm. Nhiều người
nhảy xuống tắm, tắm xong leo lên bờ, lúng túng không biết thay áo quần ở
đâu. Phan Tứ chìa ra một cuộn vải với ba cái cọc móc sẵn cho mọi người
làm cái quầy che tạm thay đồ. Thì ra anh đã tính trước cuộc chơi có
những mục gì, tại đó cần cái gì, anh lẳng lặng lo cho anh em trước cả.
Đêm neo thuyền ven bờ ngủ lại men
sông, mình ngồi trên tảng đá to phẳng lì với Bùi Minh Quốc, Thanh Quế,
Cao Việt Bách, Thuận Yến, Nguyễn Trọng Oánh uống rượu tán phét rất vui.
Giữa chừng hết rượu trong khi hãy còn thòm thèm. Rượu mang theo khá
nhiều nhưng đoàn đông người, đi chơi hai ba ngày, anh Thâm ( Nguyễn Bá
Thâm) sợ hết rượu nên quản rất chặt.
Biết xin thêm anh Thâm chả cho,
anh Quốc nói các vị trên thuyền ngủ rồi đấy, thằng Lập khoẻ trẻ đẹp
trai, mày xông vào ăn trộm một bình tông nhanh lên. Mình lĩnh ấn tiên
phong mò vào thuyền sờ soạng tìm rượu, chẳng may đụng phải chân Ngô Thị
Kim Cúc, bà Cúc tưởng ai định sàm sỡ kêu ầm lên, thế là lộ chuyện.
Anh Thâm chẳng những không cho
rượu lại còn mắng cho nữa. Mình vừa ngượng vừa tức nhảy ra khỏi thuyền
thì Phan Tứ gọi giật, nói Lập Lập đây đây, anh dúi vào tay mình một bình
tông rượu đầy, nói rượu mình mang theo dự phòng đây. Mình cảm động quá,
anh còn tính trước cho cả mấy ông sâu rượu, hiếm có ai chu đáo đến như
thế.
Phan Tứ là vậy, đi đâu nhỡ đói có
anh mang sẵn tiền, nhỡ khát có anh mang sẵn nước, giấy lau miệng, tăm
xỉa răng, dao cạo râu… đủ cả, đến cả giấy vệ sinh nhỡ khi đau bụng anh
cũng chả quên. Hôm nghe tin anh mất, hình như là một ngày mùa thu năm
1995, mình đang ở Hà Nội, lảng lặng ra quán rượu ngồi một mình nhớ anh.
Chỉ nhớ mấy chuyện lặt vặt ấy thôi mà ứa nước mắt.
Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập
– Lỗ Tấn, sinh năm 1985, mất năm 1963, quê quán ở tỉnh Bắc Ninh, gốc Ba Tàu, từng có 3 đời vợ, 5 người con.
– Tô Hoài sinh năm 1920, quê Nghệ An, năm 1960 ông có 200 bài thơ và đạt kỹ luật (kỉ lục) nhà thơ Việt Nam.
– Tô Hoài là người chiến sĩ cách mạng đã từng sống và chiến đấu trên vùng đất… Tây Nguyên.
– Tác giả bài thơ “Vội vàng” là cô Xuân Quỳnh
Những ví dụ đó đã được đăng tải trên nhiều tờ báo như SGGP, Hà Nội mới, Giáo dục thời đại…
Cung thương làu bậc ngũ âm … hihihi lúc đó cả lớp được một phen cười như vỡ chợ
Ngụy tiên sinh công nhận, trong cuộc đời Phan Tứ là người sống có văn hóa, một người bên ngoài có vẻ tốt, trừ chuyện vô hậu dụ người ta có con trong rừng, khi hòa bình không hề ngó đến mẹ con người ta …
Phan Tứ còn làm một chuyện không hề xứng đáng với tên tuổi ông, với ông ngoại Phan Chu Trinh của ông là PT đã viết một bài phê bình rất ác với tác phẩm khá hay của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh ( ký Đào Nguyễn) có tên “Miền hoang tưởng”( NXB Đà Nẵng 1990). Trong bài phê bình sặc mùi công an này, PT quy kết NXK là chống đảng, là đại phản động, kêu gọi bỏ tù nhà văn tài năng này.sau này, chính báo công an lại ca ngợi cuốn “Miền hoang tưởng” của NXK, chứng tỏ bài phê bình của Phan Tứ là bài viết do ghen tức tài năng mà vu cáo người ta thôi.
Sau mới thấy nhà văn Nguyễn Xuân Khánh là một nhà tiểu thuyết lớn của VN với hai tác phẩm đồ sộ từng được rất nhiều giải thưởng : “Hồ Qúy Ly”, “Mẫu Thượng Ngàn”…còn tác phẩm Phan Tứ giờ in lại, rất khó bán vì cái thời của ông nhà văn bônsêvích này đã hết.
Ngụy tiên sinh xin post bài ca ngợi cuốn “Miền hoang tưởng” từ web : http://cand.com để các bạn biết PT rất rất láo :Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Về từ “Miền hoang tưởng”
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
Tiểu thuyết văn học trong độ mươi năm lại đây, nếu không có “Hồ Quý Ly” và “Mẫu Thượng Ngàn” thì sẽ bớt đi biết bao nhiêu cái sang trọng của bản sắc văn hóa Việt thấm đẫm trong văn học Việt.
Tác giả của hai cuốn tiểu thuyết gây xôn xao dư luận và được tái bản nhiều nhất trong thời gian vừa qua là một người đàn ông vô cùng kỳ lạ. Đột ngột xuất hiện, như thể ông vừa bước ra từ một huyền thoại nào đó, từ một sự ẩn mình đâu đó lâu lắm, như loài trầm hương trong rừng sâu kia, một ngày nhoài lên từ lớp mùn và mục gỗ để đi về phía ánh sáng mặt trời và đem theo mùi hương quý giá.
Tôi đã có cuộc trò chuyện kỳ lạ với người đàn ông kỳ lạ ấy trong một buổi sáng mùa đông đầy nắng của Hà Nội. Bên ngoài số nhà 36 ngõ Trần Khát Chân cũng lạ lắm, cũ kỹ và bí ẩn. Tôi áp mặt qua cảnh cửa sắt tò mò nhòm vô phía trong phòng khách nhà ông và bấm chuông. Một người phụ nữ cao gầy hé cửa cho tôi vào. Tôi lọt thỏm vào căn phòng mờ tối treo duy nhất một bức trống đồng khắc họa bằng kim khí. Một lát sau, ông xuất hiện ở cửa, dáng người cao gầy, cúi lom khom bước vào phòng khách. Mái tóc dày bạc xõa trước trán, và nụ cười thường trực trên môi với ánh mắt tinh nhanh hóm hỉnh. Ông xuất hiện, làm cho khung cảnh nơi đây sinh động hẳn lên.
Khác với những gì tôi tưởng tượng, tiểu thuyết gia nổi tiếng này gần gũi và vô cùng bình dị, vô cùng sống động, trẻ trung trong câu chuyện đời mình và đời văn nghiệp mà ông vô tình ghé chân qua rồi trở thành duyên nợ suốt đời.
Chúng tôi uống trà nóng, cười giòn tan bên những câu chuyện ngộ nghĩnh và cùng ông quay ngược thời gian trở về thời thơ ấu, về với những biến cố xảy ra trong cuộc đời nhiều sóng gió của ông. Ông kể rằng: sở dĩ, tính nữ thiêng liêng trong các tác phẩm của tôi dày dặn, phì nhiêu, sum suê và sống động, là bởi từ nhỏ tôi đã lớn lên giữa nỗi đau sự cô độc, cô đơn của những người đàn bà. Đầu tiên là già của tôi, một người đàn bà tự nguyện không lấy chồng để chăm lo cho các em rồi sau này là các cháu. Thời đó, tính đại gia đình là ghê gớm, chuyện một người con trong đại gia đình không nghĩ đến lập gia đình riêng để ở lại chăm sóc cha mẹ và các em là bình thường. Rồi đến dì tôi, bà cũng sớm mất chồng do ông bệnh nặng.
Nhưng cú sốc lớn nhất đối với một thằng bé 7 tuổi non nớt như tôi là chứng kiến cái chết của cha tôi khi mẹ vừa tròn 30 tuổi. Mà người đàn bà bước sang tuổi 30 là lúc họ đẹp nhất, rực rỡ nhất, chín nhất và cũng là lúc khát khao hạnh phúc nhất. Chỉ vì những lễ giáo vô hình mà mẹ tôi phải ở vậy, hy sinh xuân sắc, thắt lưng buộc bụng quên mình đi để nuôi các con. Tôi, một thằng bé mọt sách, nghiền sách như mọt nghiền gỗ đến nỗi nhà có một cái tủ bị mất chìa khóa mà ngày nào tôi cũng hồi hộp đứng trước tủ chỉ để ao ước giá như cái tủ được mở ra, trong đó đầy sách. Ước ao nhiều đến nỗi khi mẹ tôi cậy cánh cửa tủ ra, trong đó chỉ là một cái tủ trống không tôi đã chạy ra ngoài òa khóc vì thất vọng. Một thằng mọt sách như tôi, sớm nhạy cảm và thấu hiểu những nỗi đau vô hình của những người đàn bà quanh mình. Chính nỗi cô đơn của họ đã trở thành một nỗi ám ảnh trong suốt và khắc khoải suốt cả tuổi thơ.
Tuổi thơ tôi là thế giới trong sách và những buổi theo mẹ đi hầu đồng nơi cửa Phật. Những lần ngắm mẹ lên đồng cùng những bước nhảy mê đắm mà man dại nơi linh thiêng của người, tôi đã lặng lẽ gặm nhấm một cách hoàn chỉnh nhất, mặn chát nhất và rợn ngợp nhất nỗi cô liêu của mẹ, những khát vọng buồn bã và sâu thẳm của người đàn bà xinh đẹp mà cô đơn trong mẹ tôi. Có lẽ đó cũng chính là những giây phút tôi lớn lên, trưởng thành hơn và từng trải hơn. Cảm giác đó giúp cho tôi đến gần hơn với cõi thiền, một sự tĩnh tại triền miên, một thăng bằng vững chãi trong suốt cuộc đời mình, cả khi những biến cố xảy ra không thể nói không ghê gớm.
Tôi không hề biết một ngày nào đó mình sẽ ghé chân qua ngôi đền văn chương rồi ở lại kiếp tu hành. Viết văn là một cuộc vật lộn khổ ải, một sự giãy giụa như không thể khác để vượt lên chính mình. Chưa kịp lớn thì tôi đã đi bộ đội, rồi lần đầu tiên cầm bút viết cái truyện ngắn “Một đêm” tự dưng lại được giải nhì (không có giải nhất) trong cuộc thi truyện ngắn đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.–PageBreak–
Từ đó, tôi gắn bó với văn chương như duyên nghiệp mà tình cờ số phận với những ngả rẽ bất ngờ đã đặt nó vào lòng tay. Mà cuộc đời của nhà văn nó phải như thế chứ. Tôi tin vào sự may rủi của số phận. Sau đó, khoảng năm 1960, tôi được trên cất nhắc cho về làm biên tập ở Tạp chí Văn Nghệ Quân đội cùng thời với những tên tuổi như: Vũ Cao, Thanh Tịnh, Nguyễn Khải, Hữu Mai, Võ Minh Châu, Xuân Thiều, Xuân Sách… Nhưng cái tính tôi nó cứ lông bông tình tang thế nào ấy, không phù hợp và không gắn bó nổi với một nơi quy phạm và chuẩn mực như quân đội. Rồi một rủi ro tai nạn nghề nghiệp, năm 1965, tôi được chuyển về Báo Thiếu niên Tiền phong, làm phóng viên thường trú ở Khu 4.
Đến năm 1969, tôi về hưu non, ít sáng tác. Viết một số cuốn nhưng vì lý do tế nhị nên ký bút danh khác. Lao vào cuộc vật lộn vì mưu sinh, làm đủ nghề từ cao sang như dịch thuật (tôi dịch tiếng Pháp và tiếng Anh về Triết học, Tâm lý xã hội học cho Viện Thông tin) rồi làm thợ may (hồi đó không ít ông mặc áo của tôi, ví như Trần Tiến, Dương Thụ, Sơn Tùng đều chưng diện sản phẩm của tôi đấy) cho đến những nghề mạt hạng nhất như đi bán máu, nuôi lợn, gác nhà kho… tất cả cũng vì miếng cơm manh áo để nuôi mẹ tôi, 4 đứa con trai lộc ngộc và hai vợ chồng, tổng cộng là 7 miệng ăn trong gia đình.
Cuộc sống thời điểm đất nước chưa qua khỏi chiến tranh vô cùng khó khăn, đói nghèo và gian khổ, bao nhiêu gia đình trí thức nghèo như tôi hồi đó cũng phải kiếm kế sinh nhai bằng đủ thứ nghề. Sáu năm trời ở nhà ăn, ngủ, sống và “chăm bẵm” với đàn lợn, tôi vừa nghiên cứu Kinh Dịch và viết tiểu thuyết “Trư cuồng”. Nói thật hồi đó, khó khăn quá, thiếu thốn quá, nhà nhà cải thiện bằng cách nuôi lợn. Người thành phố nhà cửa chật chội, không có chỗ nuôi lợn thì đành nuôi trên tầng 2, nuôi trong bếp, dưới gầm cầu thang. Đến ông Thành ủy, Khu ủy cũng nuôi lợn, toàn dân cuồng lên vì lợn, tôi gọi đùa là “bệnh điên lợn” mà.
Thế rồi tôi vẫn kiên trì nhẫn nại với nghề viết dù cho cuộc sống lúc đó hết sức khốn đốn, chật vật. Văn chương đối với tôi là một khu đền đài linh thiêng, dù vô tình lạc bước nhưng đã đến một lần rồi thì không thể quay trở lại được nữa. Bao nhiêu năm vất vả vì mưu sinh, tôi vẫn chờ đợi, vẫn dồn nén cho văn chương bởi tôi biết cơ duyên của mình ở đó. Giờ đây tôi thật sung sướng khi không phải giấu tên dưới những cuốn tiểu thuyết của mình. Cái tên Nguyễn Xuân Khánh đã lại được trả về nguyên vẹn dưới tác phẩm văn học của “ông ấy”. Và sau bao nhiêu năm không được thừa nhận, giờ đây bạn đọc đã lại chào đón tôi, chấp nhận tôi, ưu ái và trân trọng những gì tôi viết, những thông điệp mà tôi gửi gắm, điều đó không gì tốt hơn và hạnh phúc hơn. Thế đấy, cuộc sống là một chuỗi vận động và biến thiên, để rồi sàng lọc và loại bỏ cái ấu trĩ, cái trì trệ, bảo thủ lạc hậu, và cái đích sẽ tới bao giờ cũng tốt hơn, tươi đẹp hơn, sáng sủa hơn. Cuộc sống là một sự vươn lên không ngừng nghỉ mà.
Nguyễn Xuân Khánh cười vang khi kết thúc cuộc trò chuyện tưởng không thể dứt với những ký ức của mình. Ở “Hồ Quý Ly” hay “Mẫu Thượng Ngàn”, bạn đọc đều nhận ra cái thông điệp về tình yêu mà ông gửi gắm. Đọc sách của ông, thấy yêu hơn dân tộc mình, đất nước mình, gắn bó sâu sắc hơn với nền văn hóa Việt thuần khiết, và như đứng trước một trách nhiệm lớn lao hãy giữ gìn văn hóa Việt trong cuộc hội nhập ngày hôm nay.
Cuối cùng thì Nguyễn Xuân Khánh cũng đã hào phóng dành cho tôi 2 giờ đồng hồ trong quỹ thời gian quý giá đã được sắp xếp một cách kín kẽ của ông (mỗi ngày ông dành ít nhất 3 tiếng để đọc sách và 4 tiếng để viết). Ông cho biết, về già rồi, trái với những cuốn sách đầy đặn chất “tình tang” mà ông viết thì ông lại đọc chủ yếu loại sách triết học, lý luận nghiên cứu nhiều hơn là sách truyện tâm lý tình cảm).
Nguyễn Xuân Khánh cũng hào phóng hơn lệ thường khi cho phép tôi ghé qua phòng văn của ông để chụp hình kỷ niệm. Phòng văn cheo leo trên những bậc cầu thang dốc đứng. Tôi lạc vào một nơi cũ kỹ của những cuốn sách in trên thứ giấy nâu ngày xưa gáy bụi phủ. Bàn viết của ông là một chiếc bàn làm theo kiểu bàn Sakê của người Nhật nhưng nó nhỏ bé và mong manh như chiếc bàn chéo chân đặt trên giường tầng của sinh viên những năm 1990, chỉ khác là nó đặt giữa sàn và ông ngồi bệt xuống nền đá, còng lưng đưa bút trên những tờ giấy kêu sột soạt.
Ở trên đó, những tác phẩm lớn đã ra đời…