KHI THƠ DỞ LÊN NGÔI
+ Thơ giải B của Nguyễn Việt Chiến
 ( Báo động về một cuộc thi thơ giết thơ )
 Trần Mạnh Hảo
Chủ nhật bọ định nghỉ ngơi vui vẻ thì 
đại ca Trần Mạnh Hảo gọi điện đến, nói chú mày post bài của anh lên để 
bà con bàn luận cho vui. Hỏi bài gì, anh nói bài về cuộc thi thơ VNQĐ. 
Nói thật từ lâu lắm rồi bọ không còn quan tâm đến các loại giải thưởng 
nữa, được cũng chả vui, trật cũng chả buồn. Cái sự dửng dưng này không 
chỉ riêng bọ, có thể nói là số lớn những người làm văn học nghệ thuật. 
Một khi người ta đặt tiêu chí đúng lên trên tiêu chí hay, tiêu chí thân 
quen lên trên tiêu chí sòng phẳng, tiêu chí phân phối giải lên trên tiêu
 chí công bằng ở mọi cuộc thi văn nghệ thì 
bọ biết thân phận mình lẳng lặng rút lui. Tưởng bác Trần Mạnh Hảo cũng 
đã yên phận thủ thường rồi, ai dè bác vẫn còn máu he he.
Bọ
 post bài ni lên, bà con cùng bàn luận với bác Hảo nhé. Đây là ý kiến 
bác TMH chứ không phải ý kiến của bọ, kính thưa các đồng chí VNQĐ.
Cuộc thi thơ văn của tạp chí Văn 
Nghệ Quân đội hai năm 2008-2009 vừa được báo chí loan tải ( 7-01-2010) 
đã kết thúc và thành công rực rỡ. Thậm chí có trang web www.lethieunhon.com còn tung hô hai nhà thơ được giải A về thơ là Nguyễn Linh khiếu và Nguyễn Thanh Mừng là “hai trạng nguyên thơ” (!)
Công bằng mà xét, quả là cuộc thi
 thơ này đã “thành công rực rỡ” với bài thơ hay “Thời đất nước gian lao”
 của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến ( giải B) và chùm thơ hay ba bài của nhà 
thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh ( giải C)  : “Trời đói chim”,”Mùa thu ảo”, 
“Sóng”…
Có lẽ, ban chấm giải cuộc thi thơ
 văn lẫy lừng này cân nhắc khá kỹ lưỡng nên giải truyện ngắn không có 
trạng nguyên, chỉ có bảng nhỡn, cử nhơn, tú tài mà thôi. Riêng giải thơ 
đã phát hiện được hai tài năng là hai trạng nguyên : Nguyễn Linh Khiếu 
với hai bài viết về bội đội và chiến tranh cách mạng : “Những thiếu nữ 
ngoại quốc đứng khóc ở Sơn Mỹ”, “Hoa mộc miên” và Nguyễn Thanh Mừng với 
bài thơ văn xuôi khá dài viết về các chiến sĩ hải quân hi sinh ngoài 
biển đảo : “Hào phóng thềm lục địa”. Chúng tôi xin mạn phép bàn về ba 
bài thơ của hai trạng nguyên thơ này.
 Chúng tôi đã 
đọc đi, đọc lại ba bài thơ “giải A” trạng nguyên này đến hơn mười lần mà
 vẫn cứ thấy 32 câu thơ của Nguyễn Linh Khiếu và 108 câu thơ của Nguyễn 
Thanh Mừng không thể gọi là thơ, trừ hai câu này của Nguyễn Linh Khiếu 
còn tạm gọi là thơ : “ người xa nhà rượu ngô như lửa đêm đông/thanh vắng
 vẳng tiếng hoa tầm tã”( Hoa mộc miên biên giới)
 Nhiều lần trong
 các bài phê bình thơ, chúng tôi đã viết : trong thơ có nói nhưng chỉ là
 những câu nói suông thôi thì không thể gọi là thơ. Ba bài thơ của hai 
tác giả trạng nguyên thơ trên chỉ là những câu nói tầm thường, bình 
thường được xuống dòng liên tù tì thì sao có thể gọi là thơ ?
 Chúng tôi xin trích bài “Những thiếu nữ ngoại quốc đứng khóc ở Sơn Mỹ” của Nguyễn Linh Khiếu :
Đây là khổ thơ thứ nhất, không 
thấy câu nào gọi là thơ : “một sớm mai miền Trung thanh bình/cây cối tốt
 tươi đang mùa đơm hoa kết trái/tôi thấy những thiếu nữ ngoại quốc đứng 
khóc ở Sơn Mỹ/ nước mắt ròng ròng tội nghiệp họ níu ríu ôm nhau”
 Đây là khổ thứ 
hai cũng chẳng tìm thấy câu nào là câu thơ : “những thiếu nữ ngoại quốc 
đứng khóc ở chứng tích Sơn Mỹ/những da trắng da vàng da đen da đỏ/họ đến
 từ đâu trên trái đất này/có ai người Mỹ người Pháp người Nhật người Tàu
 và người Hàn quốc/chiến tranh để lại đất này biết bao chứng tích đau 
thương”
 Đây là khổ thứ 
ba của bài thơ cũng chẳng tìm thấy một câu thơ nào, toàn là những lời 
nói tầm thường : nói toẹt ra : “buổi sáng một giải miền Trung nắng gió 
thanh bình/những thiếu nữ ngoại quốc ôm nhau thảm thiết/nơi đây một buổi
 sáng lính Mỹ đã tàn sát 504 người dân vô tội/xác của họ vẫn nằm rải rác
 quanh đây/hồn của họ vẫn xếp hàng quanh chứng tích/mắt của những người 
bị giết vẫn nhìn ta im lìm”
 Đây là khổ thứ 
tư (khổ cuối cùng) của bài thơ, cũng chẳng tìm thấy một câu thơ :”những 
thiếu nữ ngoại quốc đứng khóc ở chiến tích Sơn Mỹ/có ai là người Mỹ 
người Pháp người Nhật người Tàu và người Hàn Quốc/ còn khóc được là còn 
trong sạch/nước mắt có ngăn được tội ác/nước mắt có xoa dịu chứng tích 
đau thương”
 Cái gọi là “bài
 thơ” trên của Nguyễn Linh Khiếu không có tứ, không có hình tượng, hình 
ảnh tượng trưng nào, không có nghĩa bóng ( nghĩa ẩn- đa ngữ nghĩa) chỉ 
có những câu nói chăm xuống dòng, sao có thể gọi là thơ ? Hay là vì 
chúng tôi người trần mắt thịt, không có “long nhãn” như các vị trong ban
 chấm giải nên không thấy cái hay tuyệt vời của bài tấu được gọi nhầm là
 thơ trên đây ?
 Xin quý vị cùng
 chúng tôi xét tiếp bài thơ được giải A thứ hai của Nguyễn Linh Khiếu : “
 Hoa mộc miên biên giới”. “Bài thơ” này Nguyễn Linh Khiếu lấy tứ ( đạo 
thơ) của các bài thơ :”Hai sắc hoa ti gôn ( TTKH) “Máu và hoa” ( Tố 
Hữu), “Thời hoa đỏ” ( Thanh Tùng), “ Mồ anh hoa nở” ( Thanh Hải)…làm tứ 
thơ của mình. Chủ đề máu nở thành thành hoa đã thành quá sức sáo mòn 
trong thơ kim cổ; nay Nguyễn Linh Khiếu lặp lại rằng anh đến biên giới 
gặp các chiến sĩ biên phòng, thấy hoa mộc miên đỏ rực và phát hiên ra : 
máu của các chiến sĩ biên phòng từ nghìn năm nay đã nở thành hoa ! Nhưng
 nếu sự lặp lại hình tượng trong thơ của những nhà thơ khác nơi Nguyễn 
Linh Khiếu được viết bằng xúc cảm, làm mới lại bằng hình ảnh …thì nó đã 
đi một nhẽ. Đằng này, với lối viết “nói toẹt ra”, Nguyễn Linh Khiếu đã 
“có công”đóng góp vào kho tàng thơ dở một bài thơ quá dở. Cái gọi là 
“bài thơ” này của Nguyễn Linh Khiếu còn quá tệ ở chỗ ngôn từ của anh quá
 cũ, quá sáo mòn ( sáo cũ), nghe rất “cải lương” : “rực đỏ tâm can”,”một
 trời biên viễn”,”ròng rã ngàn năm”,”ngàn năm tê tái”…Chúng tôi không 
muốn làm khổ bạn đọc bằng cách trích lại những câu nói tầm thường năng 
xuống dòng này trong “ Hoa mộc miên biên giới” được mạo nhận là thơ (!)
 Xin quý bạn đọc
 cùng chúng tôi xét tiếp “bài thơ” giải A :”Hào phóng thềm lục địa” của 
một “trạng nguyên thơ” khác là nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng, chủ tịch hội 
văn nghệ tỉnh Bình Định. Nguyễn Thanh Mừng đã từng có thơ hay. Chúng tôi
 từng có bài khen ngợi một tập thơ của Nguyễn Thanh Mừng cách đây khá 
lâu. Nay Nguyễn Thanh Mừng bỏ giọng thơ chân mộc vốn có là sở trường của
 mình để thử bút qua loài thơ sở đoản là thơ chính luận, thơ lý sự, thơ 
làm dáng cách tân, làm dáng uyên bác. Xin trích mười “câu thơ hiện đại”-
 theo trường phái  “nói toẹt ra-phi hàm xúc” trong bài “ Hào phóng thềm 
lục địa” của Nguyễn Thanh Mừng để quý bạn đọc xét xem nó có phải là thơ 
hay không :
“Chúng tôi đã lùa rất nhiều hình 
ảnh sang trọng của đại dương trút vào vần điệu xôm trò của những bữa 
tiệc thơ/Nào yến sào ngọc trai nào đồi mồi san hô nào cánh buồm tung mây
 ra khơi vào lộng/ Tuy nhiên hoa thả xuống nghĩa trang trong lòng biển 
Đông/Và câu chữ dâng lên linh hồn các anh-những người lính biệt tăm giữa
 sóng cao gió rộng/Dường như hãy còn quá mỏng/Dù điều ấy,có thể các anh 
không quan trọng/ Giữa trập trùng tình thế nguy nan các anh vật lộn cùng
 bão tố đại dương/ Sau dòng điện nghẹn ngào về bộ chỉ huy gửi lời chào 
vĩnh biệt/Chúng tôi vẫn trùm chăn đọc sách/Chúng tôi vẫn mở vi tính làm 
thơ…”
 Nguyễn Thanh 
Mừng cứ kể lể dông dài vớ vẩn như thế suốt 108 lần xuống dòng, với một 
giọng điệu giả cầy cách tân, làm dáng hiện đại, uốn éo, cầu kỳ, ngô 
nghê, sáo mới…một cách rất khó chịu, tịnh chẳng thấy câu nào có thể gọi 
là câu thơ ?
 Chúng tôi chẳng
 đặng đừng mà viết bài báo nhỏ này để hỏi ban chấm giải thơ cuộc thi thơ
 hai năm ( 2008-2009) của tạp chí Văn Nghệ quân đội rằng, các vị mở cuộc
 thi này nhằm thi thơ hay hay là thi thơ dở? Nếu là mục đích cuộc thi 
chọn lấy thơ hay làm giải nhất ( giải A) thì cuộc thi thơ này đã thất 
bại hoàn toàn. Còn nếu mục đích của cuộc thi này nhằm chọn lấy thơ dở, 
tôn vinh thơ dở thì quý vị đã thành công mỹ mãn.,.
Sài Gòn ngày 10-01-2010
T.M.H.
Nguyễn Việt ChiếnThời đất nước gian lao
Chúng đã ngủ cả rồi
những con hươu bị bóng đêm săn đuổi
chúng đang gác cặp sừng lên vầng trăng cuối tháng
rồi nằm mơ về một cánh rừng
không có thuốc đạn và súng săn
Họ đã ngủ cả rồi
những người lính bị chiến tranh săn đuổi
họ nằm mơ gặp lại bầy hươu
gác sừng lên người bạn vô danh
trên cánh rừng đã chết
Chỉ còn lại vầng trăng và giấc ngủ
chỉ còn lại dấu vết cuối cùng của bầy hươu bị săn đuổi
chỉ còn lại câu thơ thầm lặng
về những người đã ra đi
Chỉ còn lại những gì không còn lại
bởi người đau đớn nhất sau chiến tranh
không ai khác ngoài mẹ của chúng ta
những đứa con không trở về
hoà bình dưới mưa phùn
được đắp bằng cỏ non và nước mắt
*
* *
Đêm đêm
những người con ngỡ đã đi thật xa
đang lặng lẽ trở về
họ lẫn vào gió vào sương đêm
không cần an ủi
họ chẳng ồn ào như lời ca sôi sục ngày ra đi
Họ còn nguyên tuổi trẻ
những người lính chưa tiêu phí một xu mơ ước
chưa tiêu hoài một đồng thanh xuân
Họ trở về tìm lại
trang sách học trò đêm đêm còn thao thức
trên cánh đồng tiếng Việt ngàn năm
Mẹ lại thấy chúng con về
như cánh cò tuổi thơ lưu lạc
đã bao ngày phải xa rời thôn ổ yêu thương
chúng con trở về tìm lại
giọt nước mắt xót xa và đắng cay của mẹ
Một bên là núi sông ngăn cách
còn bên kia là bóng đêm chiến tranh
vẫn biết đạn bom không có mắt
vẫn biết hận thù không thể phân biệt nổi
đâu là hoa sen và đâu là bùn tối
nhưng các anh vẫn phải ra đi
Các anh phải ra đi
lời ru chùa Tây Phương
những La Hán mặt buồn
người thợ mộc xứ Đoài
lấy thân xác hom hem của mình làm mẫu vẽ
ba mươi sáu dẻo xường sườn
réo rắt tấu lên bản đàn tam thập lục
người gẩy đàn thì đau đớn
mà bản nhạc viết cho đàn lại reo vui
*
* *
Mẹ đã sống dưới mưa phùn ảm đạm
những ngày dài nghèo đói quắt quay
Mẹ thiếu sữa sinh đứa con thiếu tháng
Tổ quốc xanh xaoTổ quốc hao gầy
Mẹ có mặt trong dòng người nhẫn nại
lặng lẽ xếp hàng từ mờ sớm tới đêm hôm
Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo phiếu
nuôi lớn những người con
rồi gửi tới chiến trường
Mẹ đã khóc lúc rời ga Hàng Cỏ
những đoàn tầu hun hút tuổi hai mươi
một thế hệ hồn nhiên không biết chết
chưa từng yêu khi gục ngã cuối trời
Mẹ ở lại với sông Hồng tần tảo
áo phù sa lam lũ tháng ngày
câu quan họ cất trong bồ thóc cũ
sông Cầu trôi như một tiếng thở dài…
*
* *
Tàu xuyên đêm
tiếng gió xé bánh xe lăn quần quật
đêm nay họ trở lại một thời gian lao
đường vào Nam hun hút những chuyến tầu
máu rất đỏ tuổi hai mươi nằm lại
câu hát bảo:
tuổi hai mươi những người đi trẻ mãi
câu thơ bảo:
đất nước hình cánh võng mẹ ru ta
Và ở hai đầu đêm võng mắc dọc rừng già
trăng cũng sốt rét rừng như ta sốt
trăng mất máu như bạn ta thủa trước
dọc cánh rừng na-pan
Sông Thạch Hãn
nước mùa này còn ấm
và các anh trong suốt
những người hy sinh thời gian lao
Mây Quảng Trị
mùa này vẫn một mầu huệ trắng
trên Cổ Thành
như ngày các anh ngã xuống
những người hy sinh thời gian lao
Và mưa gió Trường Sơn
mùa này vẫn tắm gội
những người con nằm lại
thời đất nước gian lao
Những cánh rừngcuối thu ngủ dưới mưa phùn
đất nước tôi những người nằm trong đất
chất phác như bùn hồn nhiên như cỏ
buồn đau không còn thở than
Những ngọn sóng đất đai lưu giữ mọi thăng trầm
người chép sử ngàn năm là bùn đất
kiên trì và nhẫn nại
máu của người là mực viết thời gian.
 ngườilàngcốm ![8b28b6a5[1]](https://quechoablog.files.wordpress.com/2010/01/8b28b6a51.jpg?w=104&h=150)
Sướng củ tỉ vì ngày nào mình cũng “Vẫn mở vi tính làm thơ”. Nhờ máy đếm trong Word có đến cả vạn câu thơ chứ đâu chỉ có 32 câu hay 108 câu!
Tiếc nửa đời còn lại, vì không biết có “Cuộc thi thơ văn của tạp chí Văn Nghệ Quân đội hai năm 2008-2009” (Do chỉ quen lướt Web và lại mê mải làm “thơ” trên vi tính, lại tiếc tiền mua báo giấy, đặc biệt báo Quân đội để đọc) .
Nếu biết, chọn lọc vài bài, mỗi bài chừng một nghìn linh tám câu kể lể dông dài vớ vẩn suốt 1008 lần xuống dòng gửi dự thi. Biết đâu, với ban chấm giải cuộc thi thơ văn lẫy lừng này, như ông Ngô Minh nói ‘KHÔNG HIỂU THƠ LÀ GÌ”, thơ mình cũng sẽ đoạt giải ba chữ A hoa, trạng nguyên đệ nhất đẳng Ba … Hoa … A!