LÃO
HỆ - Truyện ngắn Nguyễn Bàng (Sài Gòn)
Đặng Xuân XuyếnLeave a Comment
(Tác giả Nguyễn Bàng, thứ 3 từ trái sang
phải)
|
LÃO HỆ
Năm ấy tôi mới
đi dạy học được hơn một tháng. Một anh giáo viên dân lập, không học qua trường
lớp sư phạm nào, cũng không có bằng cấp gì ngoài cái chứng chỉ học lực Đệ Nhị
chuyên khoa thời Pháp được coi là tương đương với lớp 9 phổ thông vùng kháng
chiến. Nói thế nhưng cũng phải mất sáu tuần học cấp tốc các môn Tâm lý giáo
dục, Giáo học pháp và Chính trị Mác Lê nin ở trường Sư phạm trung cấp thành phố
nhân dịp vào dịp nghỉ hè, sau đó có kiểm tra rồi nhận giấy phân công. Tôi may
mắn không phải ra ngoại thành mà được ở nội thành, về một trường dân lập cấp 2.
Sáu tuần học cấp
tốc, tôi cùng 5 anh bạn được tổ chức Sở Giáo dục thành phố mượn cho một căn
phòng trong khu nhà một tầng khá rộng của một bà giáo già tốt bụng dạy Tiểu học
từ thời thuộc Pháp. Hai bữa ăn, thì học xong kéo nhau ra cửa hàng ăn uống Mậu
dịch quốc doanh, 3 hào một bữa. Thế là ổn.
Bây giờ đã học
xong, người ở nội thành, kẻ ra ngoại thành, sở Giáo dục trả lại nhà cho bà giáo
thành ra tôi không còn chỗ ở. Vì vậy khi nhận trường về dạy, đưa giấy tờ cho ông
hiệu trưởng xem xong thì ông hỏi tôi:
- Hiện giờ đồng
chí ở đâu?
Thời ấy mọi
người ở các cơ quan công sở hay trường học đều gọi nhau bằng đồng chí rồi tuỳ
tuổi mà xưng tôi hay xưng em xưng cháu. Thấy ông hiệu trưởng tóc đã bạc trắng,
tôi thành thật trả lời:
- Dạ, thưa bác
cháu chưa có chỗ ở.
Ông thư ký văn
phòng ngồi bàn bên cạnh nhanh nhảu góp luôn lời:
- Khỏi phải lo
chuyện ấy. Trước mắt tối đến đồng chí cứ về trường mà ngủ, chọn lớp nào thoáng
đãng mát mẻ ấy, kê ghế học sinh ra làm giường, sáng hôm sau kê trả lại, thu dọn
chăn màn đem xuống chỗ tôi để trên nóc tủ ấy.
Nghe ông thư ký
tốt bụng nói, ông hiệu trưởng bảo:
- Đồng chí Sửu
cho ý kiến hay đấy.
Rồi quay sang
bảo tôi:
- Vậy, đồng chí
cứ tạm như thế rồi tìm nhà ở sau nhé.
Tôi cảm ơn hai
người nhưng trong bụng nghĩ, vào thời buổi không mấy gia đình được ở nhà rộng
rãi. Một số người thu vén ở lại cho gọn dành một phần nhỏ cho thuê để có thêm
thu nhập thì cũng sợ mang tiếng là bóc lột, thì biết tìm nhà ở đâu bây giờ?
Thôi, hãy tạm yên tâm với giải pháp của bác Sửu đã rồi sẽ tính sau. Còn việc ăn
cơm thì cứ cửa hàng ăn Mậu dịch quốc doanh mà diễn.
Nhưng thật bất
ngờ, một hôm dạy xong tiết cuối, tôi đang thu xếp giáo án để xuống văn phòng
gửi rồi đi ăn cơm thì có cảm giác ai đó đang đứng sau lưng mình. Quay lại, tôi
nhận ra đó là Thu, cô bé nhỏ nhất lớp được tôi xếp ngồi bàn đầu. Tôi hỏi em:
- Thu chưa về à?
- Dạ, em đợi
thầy - Thu khẽ trả lời rồi rụt rè nói - Em nói chuyện với mẹ em ngày nào thầy
cũng ăn cơm mậu dịch, mẹ em bảo ở đấy người ta chỉ bán cơm đĩa, thầy ăn thế sao
đủ sức khoẻ để dạy chúng em rồi mẹ em bảo sao không chỉ cho thầy biết nhà lão
Hệ mà đến nói để lão nấu cơm cho.
- Nhà lão Hệ nấu
cơm thuê à? - Tôi hỏi.
Thu đáp:
- Dạ không, lão
ấy chỉ nấu giúp thôi.
-Thế lão ấy làm
nghề gì?
- Đạp xích lô ạ.
- Mà sao lại gọi
là lão Hệ mà không gọi là ông Hệ hay cụ Hệ?
- Dạ, em nghe mẹ
em bảo, lão tự xưng mình là “lão” và cũng muốn mọi người gọi mình là
lão. Thấy lão cũng đã có tuổi rồi nên mọi người thấy gọi như thế cũng hợp tai.
- Lão ấy ở đâu?
- Dạ, ở đường
miếu Hai Xã gần phố nhà em. Nếu thầy muốn đến nhà lão em đưa thầy đi.
Nghe chuyện Thu,
tôi thấy lão Hệ này có chút khác người, tôi gật đầu rồi lấy xe đạp chở em nhằm
hướng xuống con đường Miếu Hai xã. Thấy thế, Thu ngồi sau lưng tôi hỏi:
- Thầy cũng biết
đường Miếu Hai xã?
- Biết chứ, thầy
có đọc lịch sử thành phố và thấy nói xã Dư Hàng Kênh vốn là một thôn của
làng Hàng Kênh. Về sau do mâu thuẫn giữa dân làng nên thôn này tách ra, lập
làng riêng, lấy tên là Dư Hàng Kênh tức Hàng Kênh thừa và gọi tắt là Dư Hàng.
Vì chia tách nên đình chùa cũng phải chia. Hàng Kênh giữ lại ngôi đình Hàng
Kênh, có từ đầu thế kỷ 18, làng mới Dư Hàng được chia ngôi chùa Hàng, có
từ cuối thế kỷ 17. Vì không có chùa nên sau đó làng Hàng Kênh phải
xây chùa mới còn làng Dư Hàng Kênh phải xây đình mới. Ngôi miếu cũ vì ở ranh
giới hai làng nên không chia được, phải thỏa thuận là miếu chung, từ đó gọi là
Miếu Hai Xã. Tuy nhiên trong miếu, dân hai làng ngày trước vẫn làm hai khám thờ
riêng và đều thờ Ngô Quyền.
- Ô, thầy không
nói thì chẳng bao giờ em biết những chuyện ấy. Em chỉ biết đường từ nhà em đến
nhà lão Hệ phải qua Miếu hai xã thôi.
- Thế lão Hệ có
họ hàng với nhà em à?
- Dạ không, là
vì lão làm nghề đạp xích lô, bà con trong vùng ai đi đâu xa thường hẹn trước để
lão chở. Mẹ em cũng nhiều lần phải đi xa nên sai em xuống nhà lão để hẹn trước.
Đến phố chợ Cột
Đèn, khi ngang qua một ngôi nhà nhỏ 2 tầng quét vôi màu vàng, Thu chỉ tay và
nói:
- Đây là nhà em,
thầy cứ đi thẳng đến ngã ba thì rẽ trái là vào đường Miếu Hai Xã.
Đường Miếu Hai
Xã vốn là đường đất cũ của làng nên nhiều đoạn lồi lõm khó đi, hai bên hầu hết
là các ruộng rau muống. Qua được khoảng non ba trăm mét, Thu bảo tôi dừng xe và
chỉ tay về phía một người đàn ông đang ngồi bên gốc cây khế trên bờ ao ba mặt
bao quanh là ruộng rau muống và bảo:
- Lão Hệ kia rồi
thầy ạ!
Khi hai thầy trò
đã đứng bên người đàn ông mà Thu bảo là lão Hệ, tôi lễ phép ngả mũ ra và nói:
- Chào bác ạ!
Ông ta ngước mắt
nhìn tôi nhưng không trả lời mà quay sang phía cô học trò của tôi:
-Thu đấy à? Em
đưa ai đến thăm lão đấy?
- Dạ, thưa lão
đây là thầy chủ nhiệm lớp của cháu.
- À ra thế! Chào
cậu giáo, cậu còn trẻ quá, lão gọi thế có được không?
- Thưa bác không
sao ạ - Tôi cười trả lời lão.
- Cậu đừng gọi
tôi là bác mà cứ gọi tôi là lão như bà con vùng này cho nó thân mật. Tôi năm
nay cũng đã 66 tuổi rồi, gọi là lão cũng được chứ cậu?
Nhớ lời Thu nói
lúc ở trường, tôi đáp:
- Dạ, được chứ
ạ. Ở làng cháu mọi người cũng đều lên lão vào năm 60 cả.
Sau khi nghe Thu
nói tình cảnh ăn cơm mậu dịch của tôi, lão Hệ cười khà khà:
- Thế thì cậu
đến đây ăn cơm với nhà lão cho vui. Nhà lão chỉ có hai vợ chồng với một đứa con
gái năm nay mới lên sáu nhưng hiện giờ có 6 miệng ăn, thêm cậu nữa là 7.
- Sao chỉ có hai
bác và em bé gái mà lại có 6 miệng ăn ạ?
- Là thế này, ba
miệng kia là ba anh thợ xa quê nhờ lão nấu ăn cho để đi làm. Hai anh thợ mộc
rong quê ở Thái Bình, một anh thợ hàn nồi rong quê ở tận Thanh Hoá. Họ đều chưa
có gia đình chung nhau thuê một căn nhà trọ ở làng Dư Hàng gần đây. Thế nhà cậu
ở có gần đây không mà định nhờ lão nấu cơm cho.
Tôi chưa kịp đáp
thì Thu đã lại nhanh miệng kể với lão Hệ về tình cảnh chỗ ở của tôi. Nghe xong
lão chép miệng bảo:
- Hoàn cảnh nhỉ?
Nếu cậu không chê nhà lão chật hẹp thì còn một gian buồng nhỏ cạnh bếp, dọn đến
mà ở tạm, có được không?
Tôi chưa biết
gian buồng lão Hệ nói chật hẹp ra sao nhưng tôi nghĩ được ăn ở cùng một nơi
thật là quá tiện. Vì thế tôi đáp luôn:
- Dạ, nếu được
thế thì tốt cho cháu quá. Hàng tháng cháu sẽ gửi lão cả tiền ăn và tiền nhà
cùng một lúc.
Lão Hệ nhìn tôi
rồi nhìn sang Thu như có ý hỏi cô bé chưa nói gì về lão với tôi hay sao rồi
chậm rãi nói:
- Lão có cho cậu
thuê nhà đâu mà lấy tiền của cậu. Còn tiền ăn, cậu ăn thì cậu phải đóng góp,
thế thôi. Mà cậu đóng tiền cho cậu ăn chứ nhà lão cũng không lấy một xu nào
đâu. Mỗi tháng 18 đồng bằng tiền ăn ở nhà ăn tập thể thành phô. Ở đấy, mỗi
tháng nhà nước còn trợ cấp thêm cho mỗi người ăn 3 đồng củi lửa nữa nhưng ở
đây, củi lửa lão kiếm được vì vậy 18 đồng chỉ hoàn toàn dành cho 2 bữa ăn thôi.
Nghe lão Hệ nói,
tôi cảm động quá chỉ còn biết nói mấy tiếng:
- Vâng, cháu
hiểu, cám ơn lão.
Ngay chiều hôm
ấy, tôi thưa chuyện với ông hiệu trưởng và ông thư ký văn phòng nhà trường rồi
đem cái chiếu đã cuốn gọn cùng gói quần áo dọn đến nhà lão Hệ và ăn ngay bữa
cơm đầu tiên ở nhà lão.
Vợ lão Hệ trẻ
hơn lão đến gần hai chục tuổi, không đẹp nhưng nom phúc hậu. Đứa con gái lão
trông nhỏ hơn tuổi lên 6 nhưng hay nói hay cười rất dễ thương. Ba anh thợ sàn sàn
tuổi nhau và lớn hơn tôi chừng ba bốn tuổi. Hai anh thợ mộc, một anh tên là
Vãng, một anh tên là Thừa còn anh thợ hàn nồi tên là Lưu. Cả ba đều chuyện trò
với tôi rất thân thiện. Anh Vãng bảo:
- Bây giờ đồ đạc
cái gì cũng hiếm nên cái gì đã cũ hay hư hỏng người ta đều muốn chữa lại để
dùng. Tuy vậy, Thái Bình quê tôi hầu hết là nông dân nghèo, họ tự sửa lấy hết
nên tôi và anh Thừa phải rủ nhau ra Hải Phòng kiếm ăn. Hàng ngày chịu khó đèo
cưa đục sau xe, đi rong các phố phường thỉnh thoảng rao hai tiếng “mộc ơ”, ai
cần thì gọi vào nhà họ sửa cho cái bàn cái ghế hoặc cái cánh cửa tủ gỗ lâu ngày
bị long đinh hay bị xệ cánh.
Anh Lưu thì bảo:
- Tôi cũng thế.
Bây giờ ở thành phố không nhà ai còn dùng nồi đất mà nồi đồng nồi nhôm thì
không dễ mua vì chỉ bán phân phối nên cái nào rò rỉ hay bị thủng bà con đều
phải đem chữa lại, nhờ thế tôi cũng có việc làm hàng ngày.
Bữa cơm hôm ấy ở
nhà lão Hệ được dọn trên một cái mâm gỗ cũ nước son đã mòn gần hết, trên có một
đĩa to rau muống luộc, một bát nước mắm cáy, một đĩa tép rang khế chua và một
bát lớn canh riêu cá chép lão Hệ cất vó từ dưới ao lên. Với tôi đó là một bữa
ăn ngon nhất trong mấy tháng vừa qua, kể từ khi tôi dời vùng ngoại ô ven đô Hà
Nội xuống thành phố Hải Phòng.
Được ở nhờ nhà
lão Hệ, tôi mới biết lão là là phu chân đăng ở Tân Đảo mới hồi hương mấy năm
nay. Ngày mới về để có nơi ăn chốn ở, lão đã tìm xuống Miếu Hai Xã mua mấy mảnh
ruộng rau muống, thuê người dào đất vật lên làm nền rồi dựng tấm nhà lá này.
Chỗ đất trũng giờ thành cái ao thả cá, trên trồng cây ăn quả.
Sau đó lão Hệ
lấy vợ, một người đàn bà đã gần lỡ thì, sinh cho lão đứa con gái và ở nhà nuôi
con, cơm nước, chăm bón mấy vạt rau muống và hái rau đi bán.
Ba hôm sau là
ngày chủ nhật nên tôi ngủ muộn hơn mọi ngày. Khi tỉnh dậy thì không thấy lão Hệ
đâu nhưng lại thấy anh Vãng ở nhà. Tôi hỏi anh Vãng thì được biết lão Hệ đã đạp
xích lô đi chợ Ruồn cách nhà 18 cây số từ sáng sớm để mua lợn. Tôi hỏi:
- Nhà lão định
nuôi lợn hay sao?
- Không, lão mua
về thịt làm thức ăn cho cả nhà tuần sau đấy. Cậu cũng biết bây giờ nhà nước cấm
thịt lợn lậu, người nuôi cũng không được thịt mà phải bán cho các cửa hàng của
nhà nước hoặc các tư nhân nhưng có giấy phép hành nghề thịt lợn. Lão Hệ phải đi
chợ xa mua lợn cho rẻ, cũng chỉ dám mua con lợn chừng 18, 20 cân thôi nói là về
nuôi rồi đem về trót lọt thì làm thịt. Làm thế mới có thịt mà ăn và có thêm tí
mỡ để xào nấu.
Tôi hỏi:
- Còn anh, sao
hôm nay không đi làm?
- Hôm nay phiên
tôi ở nhà chờ lát nữa lão Hệ về phụ giúp lão thịt lợn.
Tầm 9 giờ thì
lão Hệ về. Sau khi đẩy chiếc xích lô vào gần nhà bếp trong đó có một nồi to
nước đã đun xôi sẵn. Lão Hệ bảo anh Vãng:
- Anh đã chuẩn
bị bao bì có tro bếp bên trong chưa?
- Rồi ạ.
- Thế thì tiến
hành ngay thôi.
Như đã quen
việc, anh Vãng lấy cái bao bì trong bếp ra, mở rộng miệng bao rồi đưa vào sát
cái hòm gỗ ở dưới thùng cái xe. Lão Hệ nhanh nhẹn mở dây buộc nắp hòm rồi
lùa tay vào trong vỗ vỗ. Một con lợn nhỏ nhưng béo hồng khẽ kêu ịt ịt vừa thò
đầu ra thì lão Hệ nhanh tay ủn cả người nó vào cái miệng bao trong tay anh
Vãng. Tôi thấy con lợn vừa thở vừa dãy dụa và kêu sặc sặc như bị nghẹt thở và
tôi hiểu ra nó đã bị hít tro bếp trong bao nên không thể kêu to thành tiếng được.
Lát sau con lợn nằm im thở, bấy giờ lão Hệ mới lôi nó ra rồi túm hai chân sau
dốc ngược đầu nó xuống cho anh Vãng cắt tiết. Thoáng sau chưa đến nửa giờ họ đã
cạo sạch lông con lợn rồi bắt đầu xả thịt.
Bữa trưa hôm ấy
như một bữa tiệc nhỏ, có tiết canh, có cháo lòng dồi và đủ mấy món thịt lợn
rán, xào, nấu.
Tôi hỏi anh Vãng:
- Chủ nhật nào
lão Hệ cũng đi chợ Ruồn mua lợn về thịt à?
- Đâu có - Anh
Vãng đáp. Khoảng 3 tuần hay 1 tháng mới đi một lần thôi. Cậu tưởng đem được con
lợn về thịt dễ lắm à? Phải qua mấy chỗ quản lý thị trường gác, họ kiểm tra đòi
xem giấy chứng thực là người chăn nuôi. Lão Hệ đã phải đóng hòm kín chở lợn và
phải tìm cách vòng vèo qua mấy cung đường bờ ruộng mới đi thoát được đấy. Rồi
về làm thịt nữa, không cẩn thận bị công an khu vực và tổ trưởng dân phố bắt
được thì lôi thôi lắm. Lão bảo, rau thì nhà đầy ruộng, tôm tép thì mua chợ Hàng
gần ngay nhà còn cá thì nuôi dưới ao, cần bắt thì thả vó kéo lên. Mổ con lợn để
có ít thịt bồi dưỡng mấy ngày cho cả nhà còn chủ yếu là có lọ mỡ để xào rau,
rán cá cho các bữa khác.
Ít lâu sau, đúng
ngày chủ nhật lão Hệ đi chợ Ruồn thì hôm ấy tôi xuống thăm nhà mấy học sinh xem
các em ăn ở học hành ở nhà ra sao đến gần trưa mới về. Vừa tới đầu ngõ vào nhà
lão Hệ, tôi đã nghe tiếng lão giận giữ vọng ra:
- Các chú có
giỏi thì cứ tịch thu chiếc xích lô của lão đem về ủy ban đi. Nhưng lão nói cho
mà biết, nó là đầu cơ nghiệp của lão cũng giống như con trâu là đầu cơ nghiệp
của người nông dân ấy. Không có nó để đi kiếm ăn, lão sẽ vác chiếu lên ủy ban
nhịn đói nằm ngủ ngoài vỉa hè bao giờ trả xe cho lão thì mới về.
Tôi vội đi vào
nhà thì thấy ông tổ trưởng dân phố và anh công an khu vực đang đứng bên chiếc
xích lô cạnh cửa bếp, trên nền hiên bếp một con lợn đang cạo lông dở
dang. Anh Lưu trong phiên trực giúp lão Hệ vẫy tôi ra ngoài gốc khế rồi
khẽ nói:
- Hai ông con
đang làm lông con lợn thì họ xộc vào lập biên bản giết lợn lậu và đòi lão Hệ
điểm chỉ và nói sẽ tịch thu tang vật đưa lên ủy ban nhưng lão không chịu mà bảo:
- Sao lại gọi là
giết lợn lậu? Tôi bỏ tiền ra mua lợn, tôi giết để ăn thịt chứ có đem bán lậu
cho ai để kiếm lãi đâu.
Ông tổ trưởng
nói:
- Không bán
nhưng nhà nước đã cấm giết lợn mà lão vi phạm thì can tội giết lợn lậu còn chối
cãi gì.
Lão Hệ bảo:
- Nhà tôi có 7
miệng ăn, tôi và vợ con có 3 phiếu mua thịt loại nhân dân, tháng 3 lạng một
phiếu, cậu giáo phiếu cán bộ loại bét 4 lạng, ba anh thợ rong không có hộ khẩu
nên không có tem phiéu. Nếu xếp hàng mua đủ một lần được 1 cân 3. Một cân 3
lạng thịt, ngần ấy người ăn dè may ra cũng đủ một bữa. Thử hỏi còn 59 bữa trong
tháng ăn bằng cái gì? Hay là ăn bằng lợn gỗ. Vậy mà mua một con lợn nhỏ về lấy
cái ăn để sống cũng là phạm tội.
Thế là họ bảo
lão đã vi phạm chính sách lại còn nói xấu chính quyền và đòi tịch thu chiếc
xích lô cùng tang vật về uỷ ban.
Anh Lưu kể xong
ra hiệu cho tôi cùng nhau trở lại căn nhà bếp. Vừa lúc lão Hệ cất tiếng nói:
- Hai chú tịch
thu những gì thì đem hết về uỷ ban đi. Hồi còn ở Tân đảo nghe cán bộ Nhà nước
gửi qua tuyên truyền hay lắm: “Nước ta độc lập rồi, mau về xây dựng đất
nước phồn vinh". Đang sống ở đất thuộc địa, làm phu cho chủ Tây,
nghe “độc lập” ai mà không thích. Nào ngờ mình đã ra đi từ nơi nghèo
khó, nay lại trở về nơi nghèo khó ấy. Biết thế này tôi đã ở lại Tân Đảo,
lấy một cô vợ người thổ dân rồi chịu khó làm ăn thế nào cũng đến ngày khá giả.
Nghe lão Hệ nói
thế, anh công an bỗng đổi thái độ:
- Thôi, nể lão
là Việt kiều Tân Đảo hồi hương theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, lần này
tha cho lão. Lần sau mà còn vi phạm nữa là không được đâu.
Nói xong anh ta
vò nát tờ biên bản vứt vào cái bếp củi đang còn hồng than rồi ra hiệu cho ông
tổ trưởng dân phố rút lui.
Tôi cứ nghĩ, lão
Hệ sẽ không bao giờ đi chợ Ruồn mua lợn nhỏ về giết thịt nữa. Nhưng tôi đã nhầm,
mấy tuần sau lão vẫn đi, có điều giờ lão khôn lên, nuôi một con chó dữ, khi
thấy người lạ nó nhe răng xù lông xông ra cắn và sủa vang lên báo hiệu cho lão
Hệ và người giúp việc biết, tống nhanh mọi thứ vào một cái rọ và quẳng ngay
xuống ao.
Mùa hè năm ấy,
trong đợt học tập chính trị của giáo viên liên trường dân lập, tôi bị phê bình
tơi bời vì đã phát biểu mấy câu bị quy là mất lập trường giai cấp. Cuối đợt
học, tôi bị xếp loại C. Lớp trưởng là một bà hiệu trưởng dân lập nổi tiếng
“bôn”, xách tập bản thu hoạch lên nộp cho lãnh đạo Sở và báo cáo về tôi. Kết
quả, hết hè năm đó tôi bị điều ra dạy ở ngoài hải đảo.
Tôi chào gia
đình lão Hệ và ba anh thợ rong rồi đem chăn chiếu và hành lý ra bến tàu thuỷ.
Không vướng
chuyện gia đình lại cũng không có việc gì lớn, ba năm liền tôi không vào thành
phố, Cho đến năm học thứ tư, tôi được cử cùng hơn chục giáo viên hải đảo vào
thành dự Hội giảng mùa Xuân để học hỏi kinh nghiệm. Xong việc, còn được một
ngày nghỉ, tôi tìm về Miếu Hai Xã thăm lão Hệ thì mới hay lão đang ốm nặng và
tôi chợt nhớ ra lão đã thất thập cổ lai hy rồi.
Thấy tôi về,
lão mừng lắm, giơ cả hai bàn tay gầy trơ xương ra cho tôi nắm rồi
phều phào nói:
- Bọn anh Vãng,
anh Thừa và anh Lưu, chúng nó về quê lấy vợ cả rồi, vừa làm ruộng vừa làm thợ
ăn công điểm của hợp tác xã. Căn nhà này chỉ còn vợ chồng lão và đứa con gái,
buồn lắm cậu ạ.
Tôi hỏi:
- Không còn ai
nhờ lão nấu cơm nữa hay sao?
Lão khẽ cười:
- Có chứ, nhiều
lắm. Nhưng lão già yếu rồi, không kham được nữa. Nhận giúp người ta mà không lo
cho ngưới ta được bữa ăn tươm tất thì tội nghiệp lắm, cậu ạ.
Rồi như bỗng nhớ
ra, lão vui hẳn lên, ngồi nhỏm dậy cầm tay tôi:
- Con bé Thu nó
vẫn xuống thăm lão luôn đấy cậu ạ. Ờ mà lão quên mất, sao lại vẫn gọi cô ấy là
con bé nhỉ? Giờ đã thành thiếu nữ mười tám xinh đẹp lắm lại đang học trường
trung cấp y của thành phố. Cô ấy bảo rất nhớ cậu nhưng không biết cậu dạy
trường nào ở ngoài đảo mà gửi thư ra.
Rồi đột ngột lão
hỏi tôi:
- Mà năm nay cậu
hăm mấy rồi?
- Dạ, cháu hăm
bốn.
Lão Hệ cười ròn
rã thành tiếng như không phải là người đang ốm nặng:
- Vậy cậu hơn cô
Thu 6 tuổi. Đẹp đôi đấy!
- Sao lão lại
nói thế ạ? - Tôi hỏi lão.
- Là cảm giác
người già mách bảo lão nói thế. Lão biết cô ấy rất quý mến cậu.
Nói rồi lão giục
tôi:
- Thôi tranh thủ
đi thăm cô ấy đi và nhớ làm sao cho lão kịp ăn bánh kẹo trước khi lão về với
tiên tổ nhé.
Lát sau, tôi từ
biệt lão Hệ. Tôi bước ra khỏi căn nhà đã nuôi tôi sống gần trọn một năm, trong
lòng xốn xang câu hỏi “Ra bến tàu ngay hay tìm đến nhà Thu, cô học trò bé nhất
lớp năm xưa?”. Mà phải, không có cô bé tốt bụng ấy thì sao mình quen biết lão
Hệ và có được những ngày ăn ở đầm ấm như một đứa con trong một gia đình phúc
hậu?!
Mời
thư giãn với nhạc phẩm NƠI TÌNH YÊU BẮT ĐẦU
của
Tiến Minh, qua tiếng hát của Lam Anh và Bằng Kiều:
*
Sài Gòn, tháng
07.2018
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét