Thư
đi thư lại: VÀI CHUYỆN VẶT VÃNH VỚI CHU VƯƠNG MIỆN - Tác giả: Nguyễn Bàng (Sài
Gòn)
Thư
đi thư lại:
VÀI CHUYỆN VẶT VÃNH
(NGUYỄN BÀNG và CHU
VƯƠNG MIỆN)
Được
tác gia, nhà giáo Nguyễn Bàng, hiện cư trú tại thành phố Hồ
Chí Minh chia sẻ những trao đổi qua email của Ông với nhà thơ Chu Vương Miện,
đang định cư tại Hoa Kỳ, vài chuyện “vặt vãnh”
về ngôn ngữ tiếng Việt, ví như: con chó, con lợn, con heo... hiểu thế nào
cho đúng?
Trộm nghĩ những “quan tâm nho nhỏ” của 2 Ông chắc sẽ hữu ích với nhiều bạn đọc,
vì thế, trang Đặng Xuân Xuyến đã biên tập và trân trọng chia sẻ cùng bạn đọc.
Nhà thơ CHU VƯƠNG MIỆN:
(Hoa kỳ: 18.06.2017)
Kính anh!
Nếu có thì giờ
làm ơn phân biệt giúp em: CON CHÓ và CON MÁ.
Thế nào là CHÓ
và thế nào là MÁ và ĐỒ CHÓ MÁ?
Kính.
Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
(Sài Gòn: 18.06.2017)
(Tác gia, nhà giáo
Nguyễn Bàng)
|
Mấy hôm nay, tôi
có chút việc nhà không mấy thì giờ lên mạng. Nay đọc thư bác, thấy bác hay hỏi
tôi nhiều câu hiểm hóc quá.
Tôi nhớ hồi đầu
học Trung học thời Pháp ở Hà Nội có tuần báo HIẾU HỌC do ông Bùi Cẩm Chương làm
chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tờ báo giúp học trò hiểu thêm nhiều kiến thức học đường
và rất nhiều điều hay về mọi mặt trong đời sống qua hỏi đáp với các nhân vật có
những cái tên rất giản dị, vui và dễ nhớ dễ mến yêu như: ÔNG TRƯỞNG HÓM, một
người nhiều tuổi nhưng rất vui tính và yêu trẻ/ CHỊ HIỀN, một người chị xinh
đẹp và hiền hậu/ ANH CÀ SẾU cao gầy lẳng khẳng nhưng hay giúp đỡ mọi người. Đặc
biệt CHÚ BÁCH KHOA, trẻ trung với đôi kính dày cộp biết tuốt, ai hỏi gì cũng
sẵn lòng giải đáp.
Tôi đã học được
ở ông Trưởng Hóm một chút lòng yêu trẻ, ở Chị Hiền một chút tính hiền hậu, ở
Anh Cà Sếu một chút tinh thần giúp đỡ người khác nhưng cái đầu tôi thì không
sao có được nhiều kiến thức như Chú Bách Khoa! Ôi, ước gì tôi có được cái đầu
như chú Bách Khoa thời ấy!
Nay bác hỏi:
Thế nào là CHÓ và thế nào là MÁ và ĐỒ CHÓ MÁ?
Thôi thì nghe
được đến đâu thì trao đổi cùng bác đến đó cho vui tuổi già trong buổi hoàng hôn.
CHÓ thì khỏi nói
nhiều.
Còn MÁ, thì có
nhiều kiểu giải thích khác nhau:
a/ Theo một số
người đi đây đi đó tỏ ra biết nhiều thì:
má = chó -
một vài vùng vẫn gọi con chó là má/ như tu má (con chó) trong tiếng Thái, người
Tày Nùng cũng gọi con chó bằng tiếng na ná như má! (?)
b/ Theo các nhà
ngôn ngữ học thì:
chó má là một từ
kép, từ đôi được cấu tạo gồm một từ gốc, hay còn gọi là từ căn - từ Hán Việt,
"căn" nghĩa là gốc, kết hợp với một từ mà có nhà nghiên cứu Việt ngữ
gọi là "từ đệm" với nghĩa đệm vào, thêm vào, thành từ đôi cân xứng,
nói nghe đỡ "cụt", đỡ "cộc". Ví như tre pheo, làng mạc,
nước nôi, gà qué, chó má, thuế má, ngựa nghẽo, đất đai, tối tăm, sáng sủa, v.v.
Và giảng giải
thêm:
Từ đôi có khi là
từ ghép bằng hai tiếng cùng Nòi khác sắc. Hai tiếng cùng Nòi có thể đều là của
Việt, có thể một của Việt, một mượn của tộc khác miễn là nó cùng Nòi (tức đồng
nghĩa) để khái niệm thành ý Nhiều (hơn). Ví dụ cùng Nòi “gà” thì Gà (từ Việt)
ghép với Qué ( từ Hoa, Qué=Kê) thành từ đôi Gà Qué có nghĩa là nhiều loại gà;
cùng Nòi “tre” thì Tre ( từ Việt) ghép với Pheo (từ Mường) thành từ đôi Tre
Pheo có nghĩa là nhiều loại tre; cùng Nòi chó thì Chó (từ Việt) ghép với Má (từ
Tày) thành từ đôi Chó Má có nghĩa là nhiều loại chó.
Cách giải thích
này cũng thừa nhận người Tày gọi chó là má.
c/ Theo các tay
hay lý sự, lắm lẽ nhiều lời thì:
Để phân biệt con
má và con chó chỉ 1 cách duy nhất: Khi ăn thịt chó thấy vài con vật bốn chân,
sủa gâu gâu lẩn quẩn bên cạnh; ta vứt cục xương xuống đất; nếu con vật nào bỏ
chạy thì đó là con chó. Con vật nào nhảy xổ tới ăn thì đích thị là con má.
Từ đó suy ra,
con chó có thể ăn bẩn nhưng dứt khoát không bao giờ ăn thịt đồng loại. Còn con
má thì đến thịt đồng loại cũng không từ.
Cũng từ đó suy
thêm, trong dân gian thường nói “người - ngợm”. Vậy ngợm là con gì?
Ngợm cũng đi
bằng hai chân, mặc quần áo, mang hia, đội mũ, có trí tuệ, có tiếng nói, ăn
thượng vàng hạ cám từ cao lương mỹ vị đến bắp luộc, khoai nướng nhưng khác con
người ở chỗ con người có thể ăn đủ thứ nhưng ko bao giờ ăn thịt đồng loại, ngợm
thì đến thịt đồng loại cũng sẵn sàng ăn sống nuốt tươi.
Trong thế giới
loài chó, chó nhiều nhưng má thì rất hiếm; ngược lại trong xã hội loài người
hình như ngợm hơi bị... không ít.
Cách giảng giải
của các tay lý sự này mang màu sắc ngôn từ Ba Giai Tú Xuất bông đùa, trêu cợt
và đặc biệt là hàm ý đả kích vào những thói hư, tật xấu của một số con
người nặng về phần con hơn phần người.
d/ Theo những
người dốt đặc còn hơi hay chữ lỏng trong đó có tôi thì:
Nói cho nhanh
là: Trời sinh ra cái tiếng Việt là thế. Chó má luôn đi chung với nhau khi người
ta cần dùng hai tiếng đó, không thể cắt nghĩa từng tiếng được.
Trong dân gian,
người ta dùng hai tiếng “Chó má” làm một tiếng chửi: Đồ chó má chỉ kẻ bần tiện,
thô bỉ cũng giống như khi chửi Đồ lang sói nhằm cho kẻ gian manh tàn ác.
Người Pháp chửi
nặng nhất là: Đồ con lợn nhưng người Nga lại là Đồ chó đẻ, Việt Nam
mình thì là Đồ chó má nhưng Đồ chó má vẫn chưa tồi tệ xấu xa bằng cái Đồ mặt l..
(Mặc dù cái
l..luôn luôn được “Chúa dấu vua yêu một cái này”)
Nhà thơ CHU VƯƠNG MIỆN:
(Hoa kỳ: 18.06.2017)
(Nhà thơ Chu Vương
Miện)
|
Thưa Bác, bài
Bác hồi âm cho Chu Vương Miện đúng gần hết, tuy nhiên Chu Vương Miện cũng bắt
chước bác mà nói Vớt cho vui, theo sự hiểu biết sơ sài cùa Chu Vương Miện thì
như sau:
Đế quốc Chăm Pa,
là người Chăm, người lai giữa Ê Đê (Rhade) và người Chăm là người Ragiai
"RaRhai hay Gialai" những người này goi Ma Chó hay Ma Gà, có nghĩa là
Con Chó hay Con Gà, từ Ma chỉ thứ vị thứ ba , (không có đực cái).
Chẳng hạn từ
"A Mỉ Ma Thuột" có nghĩa là Làng của Mẹ con Thuột, mà không có nghĩa
là Con mà cũng không có nghĩa là Thằng, sau đó thì chuyển thành Buôn Ma Thuột
"tức là làng của thằng Thuột" người Việt chuyển thành Ban Mê
Thuật (không có nghĩa gì cả?)
Các dân
tộc ít người ở các tỉnh sát biên giới Việt Trung như "Hà Giang Lào
Cai Bắc Cạn, Cao Bằng Lạng Sơn Quảng Ninh”, như người Giao người Tày,
Nùng, người Mèo, Mán, người Thái Đen và Trắng thường gọi là con Má (con
Chó). Những miền đất này thường là nuôi con Má (chứ không nuôi con Chó) ví dụ
như quê nội của CVM ở Quảng Ninh chỉ nuôi con Má (và quê ngoại của Chu
Vương Miện) ở Kiến An Hải Phòng chỉ nuôi được con Chó.
Con Chó và Con
Má bề ngoài thì y như nhau, nhưng nhìn kỹ thì phân biệt được con nào là con Chó
và con nào là con Má, con Chó thì lưỡi nó loang như da con trăn, con Má thì
lưỡi nó trắng y như lưỡi người ta, con Chó thì nuôi ở miền Trung Du Đồng Bằng,
không có tinh miễn dịch, nếu bị rắn độc cắn là chêt ngay (nếu chữa trị không
kịp), trái lại con Má nuôi trên vùng mạn ngược tức Thượng Du, có tính miễn dịch
như con bò là bất cứ loại rắn độc nào cắn cũng không chết (không sao cả),
mà sức chịu đựng nóng lạnh cao hơn con Chó. Tuy nhiên con Chó khôn hơn con Má,
là con Chó không bao giờ ăn xương đồng loại, còn con Má thì xơi tưốt.
Tờ Giấy là tờ
Giấy Trắng, nhưng Giấy Tờ là Tờ Giấy đã dùng để viết "Văn Tự hay Văn
Khế" gọi là Giấy Má, khai thuế chỉ 1 lần là xong thì gọi là Thuế nhưng
khai đi khai lại vài lần là Thuế Má.
Má là chỉ những
cái gì rau mơ rễ má, lòng thòng làm đi làm lại mãi mới xong? Ở đời cái gì
xuông xẻ thì không ai nói tới, hoặc có nói tới thì cũng ngon như “miếng dồi
chó”, hoặc Ngon như xáo Chó, lỡ mà không ra sao cả, thất bại thì thõng tay mà
thốt lên rằng: - Đúng là đồ Chó Má
Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
(Sài Gòn: 18.06.2017)
Cảm ơn bác đã
trả lời đầy lý thú.
Người Chăm hay
người Thái, người Tày có thể họ gọi con chó là con má. Nhưng con chó khác con
má như bác giải thích: “Con Chó và Con Má bề ngoài thì y như nhau, nhưng
nhìn kỹ thì phân biệt được con nào là con Chó và con nào là con Má, con Chó thì
lưỡi nó loang như da con trăn, con Má thì lưỡi nó trắng y như lưỡi người ta,…”
thì tôi thấy chưa được thuyết phục lắm. Bởi nếu đúng thế thì các sách từ điển
tiếng Việt, tiếng Thái …và các sách về động vật học sẽ không bỏ qua con vật là
con má và chắc chắn đã có rất nhiều bài viết và tranh ảnh về con vật này. Giáo
sư, Nhà giáo nhân dân Đào Văn Tiến (1920 - 1995) là nhà sinh học Việt Nam ,
đặc biệt có nhiều công trình trong lĩnh vực động vật học. Nhưng đọc một số sách
của ông, tôi cũng không nhìn thấy con má nào cả. Bây giờ “Cái gì không biết
thì tra Gu gồ” nhưng tôi tra ông Gu gồ đến mỏi tay cũng đâu có thấy hình
con má.
Năm 1895, từ
điển của Huỳnh Tịnh Của lại giải thích khác hẳn như thế này: "chó má"
ý là "Bộ ngộ nghĩnh, dễ thương. Nói về con nít".
Tôi dốt đặc, vì
vậy tôi nghiêng về lý lẽ của anh dốt đặc còn hơi hay chữ lỏng: Chó má là chó má
thế thôi! Nó không phải chỉ là con chó mà cũng không phải chỉ là con má mà là
một tiếng chửi những kẻ bần tiện, thô bỉ. Nay bác thêm ý: “ở đời cái gì
xuông xẻ thì không ai nói tới, hoặc có nói tới thì cũng “ngon như miếng dồi
chó” hoặc Ngon như xáo Chó, lỡ mà không ra sao cả, thất bại thì thõng tay mà
thốt lên rằng: - Đúng là đồ Chó Má”
Tôi thấy cũng
chưa chuẩn. Trong trường hợp này người ta chỉ thốt lên hai tiêng: Chó thật!
hoặc Chó thế, như Tú Xương đã thốt: “Tế" đổi làm "Cao" mà chó
thế!”
Còn đồ chó má
thì là chửi người khác chứ không lẽ tự chửi mình!
Tiện đây tôi
cũng nhắc lại, câu chửi đồ chó má chưa phải là một câu chửi tệ hại và thô tục
của người mình, câu chửi tệ hại và thô tục thông thường nhất vẫn là câu: Đồ mặt
l..! Mặc dù cái ấy không hề xấu xa thô bẩn mà nó còn được “Chúa dấu vua yêu một
cái này”
Nhà thơ CHU VƯƠNG MIỆN:
(Hoa kỳ: 26.06.2017)
Xin bác diễn
giải:
Từ CON LỢN miền
BẮC theo chân vua GIA LONG vào NAM
rồi tự nhiên được chuyển thành HEO?
Câu này bác chỉ
suy luận, không có sách nào nói cả.
Em là người
nghiên cứu Văn học, nếu cái gì cũng có sách thì mình còn nghiên cứu cái gì?
Kính
Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
(Sài Gòn: 26.06.2017)
Bác là người
nghiên cứu không chỉ văn thơ mà còn nhiều lĩnh vực khác, vậy bác thừa biết về
hai tiếng HEO VÀ LỢN. Tôi chỉ nghe để biết và thấy như vầy:
Một hôm, tôi hỏi
bà hàng xóm người Nam
chính tông vừa đi chợ về, bà mua đâu mà có miếng thịt lợn ngon vậy? Thì bà ấy
đáp, Dạ, chợ hôm nay nhiều thịt heo ngon lắm, mua quầy nào cũng có ông Hai ạ!
Như vậy người Nam
cũng hiểu lợn là heo và người Bắc cũng hiểu heo là lợn. Nó khác chuyện này:
Một lần vào chợ
đến phản thịt lợn, tôi bảo cô bán thịt cân cho ba lạng thịt thăn thì xem ra cô
ấy không hiểu tôi muốn mua bao nhiêu nên hỏi lại tôi, chú mua mấy trăm gờ ram?
Tôi trả lời lại, ba trăm gờ ram thì cô ấy cắt thịt cân ngay.
Về HEO và LỢN,
tôi nghe được như vầy:
1/ Theo cách
giải thích trong dân gian:
Người Miền Nam
phần lớn là những di dân từ Miền Trung, (Thanh Nghệ Tĩnh), tiếng nói của
họ nặng, khi phải bẩm trình với quan lớn, họ lại phát âm thành “quan lợn”. Quan
cho là vô phép nên sai lính lấy hèo phạt, ai bẩm “quan lợn” là phạt đòn 10 hèo.
Nhiều người bị phạt hèo như vậy, nên khi thấy con lợn họ hình dung ngay ra
những cây hèo vút vào mông họ, họ bèn mỉa mai gọi con lợn là “con hèo”. Rồi để
khỏi lầm lẫn con lợn với cây gậy quái ác ấy, họ bớt đi dấu huyền, còn lại là
con heo.
2/ Theo sách vở
thì Paulus Huỳnh Tịnh Của là một học giả người Miền Nam, trong Đại
Nam Quốc Âm Tự Vị, ông đã giải nghĩa lợn là con heo, là giống lục súc
béo hơn hết”.
Cách giải nghĩa
của Paulus Của đúng như con lợn tự khoe trong tác phẩm Lục Súc Tranh Công mà
tôi đã được học năm lớp Đệ Thất Trung học: “Nội trong hàng lục súc với nhau/
ai sánh đặng mình heo béo tốt?”.
Mà Lục súc tranh
công là một tác phẩm nôm khuyết danh có rất phần tiếng miền trong ở vùng Nghệ
Tĩnh trở vào. Nhưng về giọng và lối văn thì khá chải chuốt và âm vận du dương,
khác với những thể văn chất phác ở thời cổ nhiều, chắc là xuất xứ từ thời Lê
mạt hoặc đầu Nguyễn. Xem vậy thì tiếng “heo” có từ lâu rồi chứ không phải mãi
khi người miền Nam
đông đảo mới có. Theo tôi, lợn hay heo là cách gọi theo cách nói vùng miền mà
thôi, giống như người Hà Tĩnh nói con lợn là con lạn, con cá là con cúa.
3/ Các cách giải
thích khác:
a) Theo những
người có tính hài hước, thích đùa thì: con heo thì ăn bắp, con lợn thì ăn ngô.
b) Theo dân
thích xem phim sex thì: Con Heo đóng phim người lớn trong các phim gọi là phim
con heo, con Lợn đóng phim thiếu nhi như phim Hiệp sĩ Lợn. Nhưng người Bắc cũng
gọi là phim con Heo chứ không là phim con Lợn và các dịch giả dẫu chính gốc dân
Nam khi dịch phim hay truyện cho thiếu nhi vẫn luôn dịch là Lợn như trong
truyện Hoàng tử Lợn hay phim Hiệp sĩ Lợn mà không dịch là Hoàng tử Heo hay Hiệp
sĩ Heo!
b) Theo một nhà
nghiên cứu được mệnh danh là Học giả đường phố là ông An Chi giải thích khá chi
tiết thì:
Thực ra,
người Đàng Trong cũng từng gọi “heo” là “lợn”. Từ Đàng Ngoài, họ đã đem theo
“lợn” vào Đàng Trong. Bằng chứng là Dictionarium Anamitico Latinum (1772-73)
của Pierre Pigneaux de Béhaine, lấy tiếng Đàng Trong làm nền tảng, cũng đã ghi
nhận cho ta mục “lợn” với 3 mục phụ: “giỏ da lợn”; “bánh da lợn” và “thịt lợn”.
Đặc biệt, trong Đại Nam quốc âm tự vị, Huình-Tịnh Paulus Của còn
ghi nhận danh ngữ “màu da lợn” với lời giảng “màu da heo, có nhiều
sắc trắng đỏ xen lộn, cũng như lớp nạc, lớp mỡ”. Danh ngữ kép này cũng được
tỉnh lược thành danh ngữ đơn “da lợn” để chỉ màu sắc và dáng vẻ, như trong
“bánh da lợn” mà H.-T. Paulus Của giảng là “bánh làm giống cái da heo, phân
ra trắng đỏ nhiều lớp”.
Đây là chuyện
trong Nam nhưng ngoài Bắc thì vẫn có xài “heo” mà cái chứng cứ rõ rệt nhất là
thành ngữ “nói toạc móng heo”, vốn không phải là sản phẩm của Đàng Trong. Vậy
thì cả “lợn” lẫn “heo” đều xuất phát từ Đàng Ngoài và ta có thể ngược lên nguồn
mà suy luận rằng, trước kia đã có một sự phân công - mà ta chưa biết được lý do
- khiến cho “lợn” thì đi với “da” thành “da lợn” mà “heo” lại đi với “móng”
thành “móng heo”. Và lưu dân đã đem “da lợn” từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong rồi
dùng danh ngữ này mà đặt tên cho một thứ bánh được làm ra là “bánh da lợn” - mà
Đàng Ngoài không có - sau khi họ tiếp xúc với người Miền Dưới (tức Malaysia và
Indonesia) về phương diện ẩm thực. Cái bánh này đã chết tên trước khi dân Đàng
Trong thay “lợn” bằng “heo” theo xu hướng “dị hóa ngôn ngữ” với Đàng Ngoài kiểu
thay “bát” bằng “chén”, “ô” bằng “dù”, “cốc” bằng “ly”, “khỏe” bằng “mạnh”,
“ốm” bằng “đau”, “gầy” bằng “ốm”, “đun” bằng “nấu”, “là” bằng “ủi”, v.v…
Còn chuyện “phim
con heo chứ không phải phim con lợn” thì không khó giải thích vì về mặt văn hóa
- xã hội thì trước 1975, dân miền Nam
có điều kiện công khai xem phim sex mà miền Bắc thì không. Do đó, cái tên “phim
con heo” ra đời ở miền Nam
là chuyện thường tình và sau khi đất nước thống nhất thì loại phim đó đã chết
tên trên các phương tiện truyền thông từ trước.
Cách lý giải của
ông An Chi về phim con heo + phim sex như trên, theo tôi cũng chưa thoả đáng.
Người phương Tây gọi phim sex, phim cấp III, phim xxx…còn người Nhật thường gọi
những phim ấy là phim Người lớn. Nhưng khi các phim ấy vào Việt Nam thì được
gọi là phim con heo vì, dân ta và cả dân Trung Quốc xưa thường dùng khái niệm
“con heo” để chỉ sự quan hệ tình dục (làm tình) vì lý do đơn giản là con heo
thân hình trần trụi, không có lớp lông như quần áo che bọc bên ngoài, như con
người khi quan hệ tình dục vậy.
Trong một quyển
chính sử của Việt Nam
là Đại Việt sử ký toàn thư có chép như sau: “Năm Quý Dậu
(1513) tháng Giêng, ngày 26, nhà Minh bên Trung Quốc sai sứ sang nước ta sắc
phong cho vua Lê Tương Dực làm An Nam Quốc vương. Phó sứ Hy Tăng trông thấy vua
Tương Dực có tánh mê sắc dục, dâm ô nên nói với chánh sứ Nhược Thủy rằng: “Quốc
vương An Nam tính háo dâm nên là vua heo (Trư vương)” (SĐD, Hoàng Văn Lâu
và Ngô Thế Long dịch, tập III, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, trang 65).
Như vậy, khái niệm “con heo” để chỉ hành vi dâm ô, đồi trụy, nặng chất tình dục
(sex) đã có ở nước ta từ thời đó hay trước nữa rồi, chứ không phải chờ đến khi
người Tây đưa phim sex qua nước ta mới có.
Chào tạm biệt
bác!
Mời
thư giãn với tiểu phẩm ÔNG ĐỒ
thơ
Vũ Đình Liên, qua diễn ngâm của nghệ sĩ Quốc Anh:
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email:
bnguyen37@gmail.com
.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét