CẦU GIẤY QUÊ TÔI
(
Chương này chủ yếu là biên soạn, chỉ có vài vụn hồi ức )
Dịch Vọng quê tôi là một vùng đất cổ có bề dầy lịch
sử tạo dựng và phát triển lâu đời. Nói đến Dịch Vọng, người ta thường đính thêm
hai tiếng Cầu Giấy: Dịch Vọng Cầu Giấy-Tôi người Dịch Vọng Cầu Giấy- Dịch
Vọng Cầu Giấy quê tôi! Vì Cầu Giấy một địa danh nổi tiếng không chỉ về địa
lý, văn vật mà còn về lịch sử dân tộc.
Cầu Giấy là tên
một chiếc cầu bắc ngang sông Tô Lịch, nằm trên huyết mạch giao thông nối vùng
Tây Sơn thượng đạo và kinh thành Thăng Long, sau trở thành tên của của một vùng đất gọi là ô Cầu Giấy, một
trong năm cửa ô của Hà Nội thời trước.
Bắc qua sông Tô Lịch có rất nhiều cầu nhưng chỉ có mỗi
chiếc Cầu Giấy trở thành địa danh của cả một vùng đất từ sông Tô đến
sông Nhuệ và được ghi đậm trên bản đồ cũng như trong sách sử. Cầu Giấy xa
xưa có tên là cầu Tây Dương. Trong sách "Việt điện u linh", Lý Tế
Xuyên có nhắc đến địa danh cầu Tây Dương khi viết truyền thuyết về Từ Ðạo Hạnh
(đời Vua Lý Nhân Tông): Sau khi học pháp thuật đắc đạo, ông ném chiếc gậy thần
xuống sông Tô Lịch, gậy dựng đứng lên chạy ngược dòng đến cầu Tây Dương thì dừng
lại. Hơn ba trăm năm trước, Cầu Giấy đổi tên là cầu Sông Tô. Văn bia
"Trùng tu Tô Giang kiều bi ký" (Bia ghi việc chữa cầu Sông Tô) dựng
năm Vĩnh Trị thứ tư (1679), bản dập còn lưu tại Viện Thông tin khoa học xã hội,
miêu tả như sau:
"Cầu dài 15 gian như cánh nhạn vút qua trời thu hòa
cùng non cao nước biếc, như cầu vồng ôm vòng dải Ngân Hà, một gác cao tỏa chiếu
ánh hồng thịnh vượng, rực rỡ, thanh thoát. Trụ cầu vững vàng giữa dòng, đi trên
ván khác nào dẫm nơi đất bằng... Xã Thượng Yên Quyết là thắng cảnh có cầu nổi
tiếng ở sông Tô. Phía đông cầu tiếp cận với kinh thành tụ hội văn vật, thuyền
xe sum vầy. Phía tây cầu núi Tản mờ xa, dáng vẻ lạ kỳ, anh linh hiển ứng. Dòng
nhị thủy vòng phía bắc đi về. Miếu thần phía nam phù cho dân trong hạt phồn
vinh. Bên cầu khách vui chén tạc chén thù. Trên đường người qua lại tấp nập. Thật
là nơi ngoại ô lớn thông suốt bốn phương, năm ngả với đường thiên lý...".
Tác giả bài văn bia là Bùi Văn Trinh (1614 - 1682) người
làng Thị Cấm (nay thuộc xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm), năm Vĩnh Thọ thứ hai
(1659) thi đỗ liền hai khoa: tam giáp đồng tiến sĩ và đỗ thứ ba khoa Đông các đầu
tiên, làm đến các chức Đông các đại học sĩ, Bồi tụng, Binh bộ tả thị lang, Kim
tử vinh lộc đại phu, tước Tuyền Linh bá.
Cái tên Cầu Giấy xuất hiện
vào thời Nguyễn. Trong sách Ðại Nam
nhất thống chí có ghi: "Cầu Giấy dài ba trượng, trên cầu có nhà lợp
ngói". Có lẽ, sử gia lúc đó cứ theo nghề làm giấy của làng Thượng Yên Quyết
(tên nôm là làng Giấy) mà gọi tên cầu. Làng Giấy thuộc tổng Dịch Vọng, huyện Từ
Liêm, phủ Quốc Oai; từ năm 1889 đời Vua Thành Thái, đổi thành An Hòa, thuộc tổng
An Hạ, huyện Hoàn Long, phủ Hoài Đức. Nhưng thực ra, theo các vị cố lão, nghề
làm giấy được truyền đến làng từ thời Bắc thuộc.Ca dao cũ còn câu:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Cầu Giấy với anh thì về
Làng giấy có lịch, có lề
Có sông tắm mát, có nghề xeo, can…
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Cầu Giấy với anh thì về
Làng giấy có lịch, có lề
Có sông tắm mát, có nghề xeo, can…
Sông tắm mát ở đây chính là này lúc đầu gọi là sông Tô vốn là một phân
lưu của sông
Hồng, có chiều dài khoảng 30km, bắt nguồn cửa Hà Khẩu (có tài liệu gọi là
Giang Khẩu), quanh co gần 60 dặm, chảy qua 36 phố phường Hà Nội tới xã Hà Liễu
thì chảy vào sông Nhuệ. Bây giờ vẫn còn những tên phố gắn liền với dòng sông và
sản vật của nó như: Phố Hàng Buồm, phố Hàng Bè, phố Cầu Đông, phố Cống Vị, phố
Cầu Gỗ, phố Hàng Mắm, phố Hàng Muối, phố Hàng Rươi, phố Hàng Cá, phố Kim
Giang…Sông Tô, đoạn qua 36 phố phường đã bị lấp năm 1884 - 1886. Đặc biệt, cũng
từ đây, sông Tô chảy theo phố Thụy Khuê, lên Bưởi, nghĩa là chảy ngược lên phía
bắc. Cũng vì lẽ đó mà người xưa gọi là sông Tô Nghịch. Rồi từ Bưởi, sông Tô Nghịch
lại chảy xuôi về phía nam theo đường Láng, đường Kim Giang về Thanh Trì, nhập
vào sông Nhuệ và xuôi ra biển. Tô Lịch. Sông
Nhưng vì cảnh vật sông Tô thời đó rất nên thơ, dập dềnh chim
muông và tôm cá,xanh mướt cỏ cây hoa lá đẹp và thanh lịch lắm cho nên người ta
lại phải chỉnh chữ Nghịch thành Lịch, trả lại đúng sự êm ả và lịch lãm của nó.
Chả vậy mà trong dân gian vẫn còn truyền tụng những câu thơ:
Sông Tô Lịch vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền em sát thuyền anh
Năm 1955,tôi đang học trường Trung học Nguyễn Trãi đã cùng bè bạn nhiều lần tham gia những buổi lao động XHCN nạo vét sông Tô. Sau này tới những năm 60, sinh viên học các trường đại học ở Hà Nội vẫn nối tiếp nhau những buổi lao động xã hội chủ nghĩa ấy. Tuổi trẻ bấy giờ, chỉ với một ổ bánh mì không nhân và câu ca tiếng hát “ làm theo lời Bác “, cứ tưởng như mồ hôi có khi cả máu của mình đổ ra đang làm cho sông Tô Lịch hồi sinh. Nhưng cho đến bây giờ Nhà nước đổ hàng tỉ tiền của vào xây kè hai bờ và lát hè, trồng cây xanh, làm tuyến phố hai bên sau mấy năm mới được khoảng 15km. Nhiều cây cầu bê-tông được bắc qua sông, có nơi đã mọc lên những tòa nhà cao tầng của khu đô thị mới soi bóng xuống dòng sông Tô Lịch…Nhìn sông, trên bờ cao thì có vẻ hoành tráng trưởng giả nhưng duới hai bờ kè nó như một “dòng sông chết”, đen ngòm và bốc lên mùi hôi nồng nặc. Khi bình thường nước sông rất cạn, nhưng cứ mưa vài ngày là nước dâng úng lụt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét