HAI CÁI Ô TÂY
Từ ngày đồn chợ
Cầu Đông có viên sĩ quan chỉ huy mới, dân quanh vùng qua lại có cảm giác thanh
bình hơn trước. Bọn lính trong đồn cũng không thấy mò xuống chợ hay vào xóm
thôn xin xỏ, quấy nhiễu và trêu chọc đàn bà con gái. Nghe bọn chúng kháo nhau,
viên trung úy đồn trưởng này là một nhạc sĩ còn rất trẻ, đối xử với binh lính
dưới quyền rất hiền lành tử tế nhưng cũng rất nghiêm minh trong công việc. Ông
ta đã có cả chục nhạc phẩm được các danh ca đương thời hát, thu đĩa và phát
nhiều lần trên sóng đài phát thanh Hà Nội và đài Pháp Á. Người dân sống gần đồn
còn thấy một sự khác lạ. Đó là cái tầng 2 của lô cốt, xung quanh có những lỗ
châu mai và lỗ thông hơi nhìn ra khắp hướng, mọi ngày rờn rợn hiện lên trước
mắt mọi người một không gian tối đen chật hẹp đầy ma quái thì giờ đây trên mái
nóc của nó thường về đêm những đẹp trời luôn ngân lên những ca từ và nhạc điệu
du dương, êm đềm tưởng như đi vào tận ngóc ngách trong lòng dễ khiến người ta
chỉ muốn nhắm mắt lại để được nghe thâu đêm suốt sáng. Bọn lính trong đồn còn
kháo thêm, những ca từ và nhạc điệu du dương êm đềm đó được phát ra từ cái máy
hát của xếp đồn. Nó không phải là cái máy hát quay tay lên dây cót hiệu Tiếng
Chủ (La Voix de Son Maitre) cổ xưa vẽ một con chó ngồi trước cái loa đồng mà là
một cái máy hát tân thời với các động cơ điện chạy ắc quy, có thể chồng 10 đĩa
liền, hát hết đĩa này đĩa khác sẽ rơi xuống chạy tiếp luôn.
Năm ấy tôi 12
tuổi, học lớp Nhất trường Cầu Đông. Đường đến
trường phải đi ngang qua cái đồn ấy nhưng
chỉ nghe biết tên mà chưa bao giờ nhìn thấy mặt viên trung úy nhạc sĩ chỉ huy
đó. Một buổi, cả lớp đang giờ tập viết ám tả thì người loong toong đem đến một
tờ thông báo. Thầy giáo cho chúng tôi tạm dừng viết để nghe đọc thông báo. Nội
dung của nó là, với mục đích vui đón Tết Trung thu, Đồn trưởng đồn Cầu Đông
phối hợp cùng các trường tiểu học địa phương sẽ tổ chức cuộc thi đơn ca cho
thiếu niên học sinh vào đêm Rằm tới. Em nào muốn dự thi trực tiếp ghi tên tại
trường đang học.
Tôi về nhà hỏi
chị tôi xem có nên dự thi không vì tôi là đứa hay hát những lúc cùng chị làm
các việc lặt vặt và được chị khen là nghe hay đấy, nhưng tôi chưa
bao giờ hát ở trường lớp hoặc ở chỗ đông người. Chị tôi hơn tôi ba tuổi, vì là
con gái nên chỉ được học hết lớp Hai, biết đọc biết viết thì phải nghỉ ở nhà
phụ giúp công việc với u và bà nội. Nghe tôi nói, chị tôi bảo:
- Mấy khi có
cuộc thi như thế này, em phải thi chứ.
Tôi hỏi:
- Vậy chị bảo em
chọn bài gì để hát?
Chị tôi ngẫm
nghĩ một chút rồi nói:
- Tất nhiên bài
gì mà em thích và cảm thấy mình hát hay. Nhưng chị nghĩ, người đứng ra tổ chức
là ông đồn trưởng, một nhạc sĩ tài hoa, em nên chọn hát một ca khúc do ông ấy
sáng tác thì chắc sẽ chiếm được thiện cảm của ông ấy.
Tôi reo lên:
- Ý của chị hay
thật đấy.
Hôm sau tôi xin
phép bà nội và u tôi cho hai chị em tôi đi xe điện ra hiệu sách Bờ Hồ tìm mua
nhạc phẩm của ông đồn trưởng và sau một hồi xem mấy chục tờ nhạc của ông ấy,
tôi đã chọn mua tờ “Nắng Thu” bìa hai màu vẽ theo lối tả
chân, rất trang nhã. Về nhà tôi tập ngày tập tối, bắt chị tôi nghe
và cho nhận xét. Và kết quả không ngờ, giải nhất đơn ca đêm Rằm Trung thu đó đã
thuộc về tôi. Rồi tôi còn không ngờ hơn, ông đồn trưởng bước lên cái sân khấu
lán tre dựng giữa khu bãi chợ chìa tay ấm áp cho tôi bắt và trực tiếp trao
giải thưởng cho tôi với danh nghĩa ông là trưởng ban giám khảo thay mặt cho 4
thành viên khác trong ban gồm hai anh lính trong đồn và hai thầy giáo ở trường
làng được mời lên.
Tôi ôm cái hộp
đựng giải thưởng cùng chị tôi rảo cẳng như chạy về nhà ngay để khoe với bà nội
và u tôi, trong lòng tiếc ngẩn vì thầy tôi đang đi làm xa không có mặt ở nhà
đêm ấy. Bà nội tôi vội thắp thêm hai ngọn nến bên cái đèn dầu để nhìn cho rõ
mọi vật do hai chị em tôi mở hộp phần thưởng lấy ra đặt lên tấm phản kê dưới
bàn thờ ở gian nhà giữa: Một hộp bánh trung thu hiệu Đông Hưng Viên Hàng Buồm,
20 tờ nhạc của các nhạc sĩ nổi danh như Thẩm Oánh,Văn cao, Phạm Duy, Đoàn
Chuẩn…, 10 quyển vở bìa in hình Đông du, 1 cuốn truyện “Không Gia Đình” của văn
hào Pháp Hector Malot, 2 tập “Cổ Học Tinh Hoa” do hai nhà nho Ôn Như Nguyễn Văn
Ngọc và Tử An Trần Lê Nhân biên khảo và cuối cùng là một cái ô tây, tán ô,
khung ô và cán ô đều một màu thiên thanh đẹp mượt mà. Bà nội tôi nhìn đống quà
và bảo, những thứ này đều có ý nghĩa cả đấy, bánh Trung thu để trông trăng, các
tờ nhạc để tập hát, sách vở để học tập còn cái ô này để cho người được thưởng
có cái che nắng che mưa trên đường đi học, cháu phải cố gắng chăm chỉ học tập
thêm lên nhé. Nói xong, bà tôi cầm cái ô lên, bật mở cho tán ô xòe ra, ngắm
nhìn rồi nói:
- Ngày xưa bà
cũng mua cho thầy các cháu một cái ô tây. Đến nay nghĩ lại bà vẫn còn ân hận về
việc làm ấy.
Tôi không hiểu
sao bà nói vậy, bèn hỏi:
- Bà ơi, cái ô
tây đi học thì đẹp chứ sao mà bà phải ân hận?
Bà tôi khẽ thở
dài, cụp cái ô màu thiên thanh lại :
- Tiện hôm nay
cháu bà được thưởng cái ô này, bà kể lại cho u con các cháu nghe…
Bà là con gái
đầu lòng một nhà phú hộ ở xóm bên, làm bạn với ông nội các cháu năm bà tròn 20
tuổi. Bà hơn ông 2 tuổi, đẹp đôi đúng với mong mỏi của dân gian “Gái hơn hai
trai hơn một”. Nhà ông không khá giả bằng nhà bà nên ngay từ năm đầu chung
sống, bà đã đem mấy món đồ trang sức bằng vàng là của hồi môn mua cho ông cái
chức phó lý để được miễn sưu dịch và có chỗ ngồi ở chốn hương thôn.
Mọi việc trong
nhà bà đều thu xếp nhanh và đẹp như vậy. Nhưng ông bà lại hiếm muộn về đường
con cái. Mãi năm 24 tuổi, bà mới sinh con đầu lòng nhưng hình như trời chỉ cho
đứa bé này mượn cửa đầu thai vì mới vừa hết cữ 10 ngày thì đã ra đi vì cơn sài
uốn ván. Ba năm sau, bà mới lại sinh con lần thứ hai, cũng một bé trai nhưng
người này chỉ đem hạnh phúc làm thầy u cho ông bà được 6 năm thì cũng đi nốt vì
một trận đậu mùa khủng khiếp quét qua làng. Năm ấy ông nội các cháu mới ngoài
30 còn bà đã 33, qua cái tuổi gái đang về già rồi mà mong đêm đợi ngày mãi mấy
năm sau vẫn không có dấu hiệu gì của sự sinh nở mới khiến cả dòng họ lo lắng
chi nhà ông nội sẽ tuyệt tự. Bạc lớn bạc con hết ông lang này đến ông lang
khác, may sao năm ông nội 40 tuổi, bà lại có mang lần thứ ba và sinh ra thầy
các cháu bây giờ. Hai ông bà chăm chút đứa con coi như ơn trời ban cho từng
thìa cơm miếng sữa, từng bước đi bước chạy… Khi đứa con hiếm muộn ấy biết đi
biết nói, ông nội sáng chiều nào cũng dắt hay cõng con dạo khắp
đường làng vừa để hóng mát vừa như để khoe con với dân làng. Năm thầy
các cháu sắp lên chín, ông nội vẫn cho con ngồi trên vai, hai chân quàng
cổ bố để bố kiệu đi chơi.
Nhưng những năm
tháng hạnh phúc ấy của người cha muộn mằn cũng chẳng kéo dài được
bao lâu. Thầy các cháu vừa sang tuổi lên chín thì ông nội qua đời, hưởng
dương tròn nửa thế kỷ. Ngôi nhà cột gỗ lim lợp lá gồi ba gian hai chái của
hai mẹ con nhuốm màu quạnh hiu ảm đạm quanh năm bốn mùa.
Bà làm hàng
xáo, mua thóc bán gạo khắp chợ hàng tổng và ra cả ngoài tỉnh, đi
đó đây nhiều nên cũng có ít lưng vốn và chút hiểu biết về xã hội.
Không phải là
nhà giàu sang quyền quý nhưng tất cả những gì thầy các cháu muốn mà có
thể mua được bằng những đồng tiền dắt trong cái thắt lưng bao nhiễu
tím của bà là có ngay. Ở làng bấy giờ chỉ có mỗi một ông giáo già
dạy cả lớp Năm và lớp Tư, lên lớp Ba thì phải xin lên trường phủ. Mà
cũng không có mấy nhà đủ lực cho con học tiếp trên trường phủ. Vì thế, năm
thầy các cháu lên 10, bà đã chạy vạy xin cho con vào ngay trường phủ từ lớp
Năm. Quần áo dép giày đi học của cậu con trai bà phó lý mua làng Đông không
khác gì của học trò con nhà giàu ngoài tỉnh. Quần áo thì, mùa nào
hợp với màu sắc của mùa ấy: Mùa rét dạ đen, mùa thu tropican xanh,
mùa hạ đũi, hoặc vải tây trắng. Giày dép cũng hợp thời như vậy: Nóng thì
xăng đan trắng, lạnh thì xăng đan nâu với bít tất bọc chân, tất cả bao
giờ cũng phải sạch bóng. Sau 4 năm, cả trường đã quen mắt với quần
áo đẹp, đúng mùa đúng kiểu của anh học trò làng Đông thì vào đầu
năm lớp Nhất, họ bỗng chói mắt thấy cậu đội cái ô tây đến trường trong
khi các trò khác chỉ đội mũ cát, thậm chí nhiều người vẫn còn đội nón.
Ô tây là cái ô
của người tây dùng che đầu, sau những người An nam giàu có cũng học
theo. Đàn ông con trai thường dùng ô to lợp vải trắng, đàn bà con gái thì
dùng ô nhỏ thanh mảnh đủ các màu đẹp mắt. Nó không như cái ô ta gọi là ô lục
soạn lợp vải đen với tất cả nan gọng cũng màu đen trông rất thô kệch.
Ấy vậy nhưng cái ô ta từ bao thời đã là một thứ sang trọng đúng như câu ca:
"Cái ô lục soạn cầm tay/ Cái khăn xếp nếp, cái dây lưng điều" vì
thời ấy, người An nam mình hầu hết chỉ đội nón. Nhưng để có một cái
nón lá già mầu nâu sậm xâu xấu nhưng rẻ tiền nhất lại dùng cũng bền nhất,
nhiều người cũng không mua nổi. Dân làng mình hầù hết ra đường với
cái nón mê cũ và rách nát. Đếm đầu ngón tay mới có một vài người đội ô ta,
đó là những người khá giả hay có chức sắc trong làng. Nhiều người không có
ô, khi có việc phải lên huyện phủ xa thường phải đi mượn.
Cũng không biết
trong dân gian ai đã dạy trẻ con bài đồng dao lý thú này để mỗi khi
thấy ai đội cái ô ta đi đường, chúng bảo nhau hát váng lên:
“Ông Lý Toét mà
cắp cái ô
Đi lên phố gặp
lúc mưa to
Có bác Xã Xệ mà
muốn đi nhờ
Này ông Lý, tổng
nhĩ hay sao?
Gọi như thế mà
chẳng xem sao!
Giá có cút rượu
thì đến xơi liền
Đi nhờ một tị
mặt cứ vênh lên”.
Ông lý ra
tỉnh, có cái ô lục soạn đen nhưng sợ hỏng thường chỉ cắp nách, khi nào mưa
lớn nắng to mới dám bỏ ra đội. Thế mà mặt đã vênh lên tự mãn như thế
đấy.
Còn về cái ô
tây, có câu thơ này của ông Tú Xương, người thành Nam
hơn bà mấy tuổi nức danh giỏi thơ và cũng nức tiếng sành ăn chơi:
Hôm qua anh đến
chơi đây
Giày giôn anh
dận ô, tây anh cầm
Bà không biết
tiếng tây nhưng ra tỉnh bà đã thấy một số người chân dận cái thứ
giày giôn màu vàng, tay cầm cái ô tây đắt tiền kiểu ấy. Trông họ thật là
sang trọng.
Cái ô tây của
thầy các cháu là bà mua ở chính phố Hàng Đào. Phải mất gần nửa buổi ra vào mấy
cửa hiệu ngắm nghía chán rồi bà mới chọn được cái ô từ tán đến khung và tay cầm
đều một màu trắng sáng mượt mà. Nhìn thầy các cháu đội cái ô tây trông ra dáng
thư sinh con nhà giàu lắm khiến trong lòng bà nở từng khúc ruột vui sướng.
Thế rồi một
buổi đi học về, thấy thầy các cháu đầu trần, bà hỏi ô đâu thì nói
mải cùng bạn ra về đến nửa đường mới biết quên mất ô ở lớp, vội quay lại
nhưng chiếc ô đã không còn. Chạy xuống phòng người gác trường hỏi thì ông ta
lắc đầu không biết. Bà tiếc của lắm nhưng không một lời trách mắng con mà
chỉ hứa sẽ mua cho con chiếc ô khác.
Nhưng ô mới
chưa kịp mua thì mấy ngày sau, thầy các các cháu đi học về, vứt cặp
sách xuống phản và buông gọn một câu “Con không đi học nữa đâu, u ạ!”. Bà
sửng sôt hỏi vì sao thì cậu con kể có thằng bạn ở gần nhà thầy hiệu trưởng mách
là nhìn thấy anh con trai thầy đội chiếc ô của con lên phố phủ. Nó lân la hỏi
thì anh ta bảo mua rẻ của thằng con lão gác trường. Ức quá, con gặp ngay lão
gác trường đòi lại thì lão ta mắng con là đồ vu khống. Con lên thưa
chuyện thầy hiệu trưởng thì thầy hỏi chứng cớ đâu, con không dám nói tên
thằng bạn vì sợ liên lụy đến nó. Rồi thầy đe dọa con, cẩn thận không bị đuổi
học vì nói năng bậy bạ đấy. Rõ ràng ông ta là một người xấu, học cái trường do
ông ta làm hiệu trưởng thì học làm gì, thà ở nhà xay lúa giã gạo cho u còn hơn.
Nói là làm, hôm
sau thầy các cháu không đi học nữa mặc cho bà nước mắt ngắn nước mắt dài van
vỉ. Thầy các cháu tự chấm hết tuổi học trò năm mới già mười lăm tuổi.
Chỉ cần học hết năm lớp Nhất ấy thôi là có cái bằng Khóa Sanh còn
gọi là bằng Xéc danh giá nhất làng và cả thôn cũng đã có được một bữa ăn
khao.
Bà nội tôi lại
thở dài lần nữa:
- Sai lầm lớn
nhất của đời bà là đã quên mất lời dạy trong sách Gia Huấn Ca. Sách
dạy rằng:
Mùa đông tháng
hạ thích thường,
Đừng ôm ấp quá,
đừng suồng sã con
Và rằng:
Giàu sang cũng
chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm
phận chớ lòng khinh ai
Bà đã quá yêu
chiều thầy các cháu. Nó là đứa sáng dạ, học đâu hiểu đó vậy mà vì cái ô tây
nó đã đánh mất tương lai làm người có học thức của nó. Bà không chỉ mất cái
ô tây và mất rất nhiều nước mắt không thể đong đo nổi mà còn đánh
mất tương lai tốt đẹp của một đứa con độc nhất. Mà đâu chỉ mình bà bị
mất, xét cho cùng, bây giờ u con các cháu cũng bị mất theo.
Thế rồi sợ thầy
các cháu ở nhà lêu lổng chơi bời a dua rượu chè cờ bạc, bà tậu cho thầy các
cháu một cái xe ngựa. Nghề đánh xe ngựa vất vả, nắng mưa khô rạc ngựa gầy nhưng
cũng kiếm ra tiền. Mấy năm sau, nhờ thầy các cháu cũng có chút ít chữ nghĩa, bà
chạy xin cho cái chân cai lục lộ ngoài tỉnh. Nghề phu đường dãi nắng dầm mưa
cũng cơ cực lắm nhưng làm cai mát mặt hơn nhiều mà lương bổng cũng tốt.
Sau câu chuyện
cái ô tây của thầy tôi bà nội kể đêm trung thu ấy,
một chuyện thật
tình cờ đến ngạc nhiên bỗng dưng đến ngay ngày hôm sau. Ấy là thầy tôi từ tỉnh
về với một điệu bộ rất lạ, đầu không đội mũ cát mà thay vì là một cái ô cũ nát,
cán làm bằng tre, tán vải màu cháo lòng vàng bẩn và loang lổ đầy vết ẩm mốc
trông méo mó vì bị hỏng mấy cái gọng.
Sau khi cất lời
chào bà nội tôi và gật đầu chào u con tôi, thầy tôi đặt cái ô đó lên tấm phản
tối hôm qua tôi vừa đặt cái ô phần thưởng màu thiên thanh óng mượt rồi hỏi bà
tôi:
- U có nhận ra
đây là cái ô tây u đã mua cho con 20 năm về trước không?
Cả nhà tròn mắt
trước câu hỏi ấy. Bà tôi cầm cái ô cũ nát đưa lên trước mắt, hết nhìn lại sờ
nắn suốt từ tán ô đến khung ô và cái tay cầm bằng tre rồi nói với thầy tôi:
- U chịu không
nhận ra đây lại là cái ô ngày trước u đã mua cho anh. Nếu đúng nó thì sao lại
tang thương đến nông nỗi này?
- Vâng, U để con
thưa chuyện.
Thầy tôi nói rồi
chậm rãi kể:
- Mấy bữa nay
trông coi phu lục lộ sửa con đường Miếu Cổ, con thường thấy một người đàn ông
đã có tuổi đội cái ô này đến cạnh miếu để xem tướng số cho người qua lại. Con
cũng không biết vì sao, khi nhìn thấy cái ô cũ nát của ông ta, trong đầu con
lại bật lên một giọng nói thì thầm “Cái ô ngày xưa của anh đấy!”. Tò mò xem
thực hư cái ảo thanh liêu trai ấy ra sao, con lại bên ông ta nhờ xem cho một
quẻ về đường công danh rồi tìm cách làm quen và hỏi sao ông ta lại có cái ô cán
tre kỳ dị vậy. Ông ta nói:
- Trước kia nó
là cái ô đẹp và đắt tiền lắm đấy cậu ạ.
- Thế ông đã mua
nó bao nhiêu tiền?
- Tôi không mua
mà nó là của gán nợ cờ bạc cho thằng con trai tôi trị giá 10 đồng. Thằng thua
bạc kia là con ông hiệu trưởng trường Phủ Đông hồi đó. Nó cùng thằng con tôi
với mấy đứa con nhà khác hay tụ tập đánh bạc với nhau. Nghe nói, ông hiệu
trưởng đã bị về vườn sớm mấy năm chỉ vì thằng con ấy bị bắt về tội tổ chức đánh
bạc. Thằng con tôi đem cái ô về cho tôi, nó bảo:
- Thầy cầm lấy
mà che mưa che nắng, con hầu như chỉ đi lại ngoài đường lúc đêm tối, đem nó
theo thêm nặng chân tay.
Mới đầu tôi nâng
niu gìn giữ cái ô này như một vật quý. Nhưng một hôm trên đường về nhà, tôi bị
một con chó thả rông đuổi cắn. Tôi sợ cuống lên, vội cụp cái ô lại vụt lia lịa
vào con chó. Nhưng con chó không trúng đòn vì cái ô của tôi chỉ toàn vụt xuống
mặt đường làm gẫy vụn cái cán săt. Tiếc của, tôi kiếm thanh tre vót làm cái cán
như thế này và từ đó chán, bạ đâu dựng vứt đó nên nó mới tã bẩn ra thế. Mà cậu
ạ, cũng đã mười mấy năm trôi qua, người như tôi cũng đã ốm yếu mỏi mệt rồi, đồ
vật như nó, có giữ gìn thì cũng tàn tạ như người vậy. Cái đáng quý nhất trong
nhà là con cái thì tôi đã để nó theo chân bác thằng bần. Giờ nó cũng đã bị cho
chân vào tù rồi vì tội đâm chém nhau trên chiếu bạc.
Một ý độc ác
chợt lóe lên trong đầu con: Phải mua cái ô này để trả thù ông hiệu trưởng cũ
bằng cách đem nó đến nhà ông ta cho ông ta nhìn lại nó tận mắt và nghe tận tai
con nói lại những lời của ông thầy tướng để ông ta đau khổ và sẽ phải sống tủi
nhục suốt những ngày còn lại của cuộc đời.
- Ông có muốn
đổi cái ô này lâý chút tiền không?- Con nói với lão thầy tướng.
- Cậu đùa tôi
làm gì, ai thèm đổi cái ô đánh không nổi con chó này?
- Thế tôi muốn
đổi thì sao?
- Cậu lại đùa
dai tôi rồi.
- Tôi không đùa
mà nói thật lòng đấy vì tôi thấy ông đã đoán cho tôi một quẻ rất hay. Thế này
nhé, tôi sẽ đưa ông số tiền đủ mua một cái ô lục soạn mới còn ông trao lại tôi
cái ô cán tre kia để tôi làm kỷ niệm chờ ngày vận phát như ông đã đoán.
Lão thầy tướng
sướng như mơ bắt được vàng. Nhưng khi đã cầm được trên tay cái ô này, trong
lòng con bỗng tan hết ý nghĩ trả thù ông hiệu trưởng cũ vì con nhớ lại lời u
thường nói: Oán trả oán, oán chồng chất. Con sẽ giữ nó làm một vật kỷ niệm mà
thôi.
Ngay sau đó thầy
tôi treo cái ô cán tre lên cột hiên trong hiên phía trước ngôi nhà
gỗ ba gian hai chái để đi về đều nhìn thấy nó. Tôi cũng bắt chước, đem cái ô
mới được thưởng tối hôm qua treo bên cạnh cái ô cán tre đó. Chị tôi hỏi:
- Thế em không
đem ô đi học à?
Tôi đáp:
- Em không muốn
ở trường nói mình khoe khoang sĩ diện và cũng muốn học lời bà đã nhắc nhở:
Giàu sang cũng
chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm
phận chớ lòng khinh ai
&
Năm sau, tôi ra
tỉnh trọ học lên Trung học. Gần đến Tết Trung thu, chị tôi nhắn ra, ông trung
úy nhạc sĩ đồn trưởng đồn Cầu Đông lại tổ chức cuộc thi đơn ca lần thứ hai cho
thiếu niên học sinh vào ngày Rằm tới, em có về xem để chị ra đón. Tôi muốn về
lắm nhưng bài vở đầu năm học ngập mắt nên đành chịu, nhắn lại cho chị tôi, chị
đi xem đi, có gì chị kể cho em nghe sau nhé.
Nhưng thật bất
ngờ, sau đêm Rằm Trung thu, khi tôi đang chuẩn bị đi học sáng thì chị tôi xuất
hiện ở nhà trọ, nghẹn ngào báo tin:
- Ông đồn trưởng
chết rồi!
Tôi cuống lên
hỏi vì sao thì chị tôi với đôi mắt ngấn lệ kể lại:
- Tối qua, khi
cuộc thi hát vừa mới bắt đầu thì bỗng nghe tiếng lựu đạn nổ vang ném vào phía
đồn bốt và rồi tiếng súng nổ ran từ trong đồn bắn trả ra. Ông nhạc sĩ đồn
trưởng vội kêu gọi mọi người giải tán về nhà, vẫy tay gọi hai anh lính trong
ban giám khảo rồi tức tốc chạy trước về đồn và bất ngờ bị trúng thương, tử vong
ngay tại chỗ. Cuộc công đồn của liên quân du kích địa phương không thành, hai
bên đều không có thương vong ngoài cái chết của ông đồn trưởng. Sáng nay lính
trong đồn kháo nhau ngoài chợ, khi khiêng xác chỉ huy của họ vào đồn thấy túi
áo ngực của ông ấy gài chiếc bút máy Parker, trong túi có một tờ giấy kẻ khuông
nhạc đang viết dở một nhạc phẩm có tên là “Giấc Mơ Hòa Bình”.
Nước mắt tôi
tuôn trào theo từng lời chị tôi kể và trong khoảng sáng nhỏ bé nhạt nhòa nước
mắt ấy, tôi bỗng thấy hiện lên rõ từng nét hình ảnh ông trung úy nhạc sĩ đồn
trưởng trong đêm thi hát Trung thu năm trước chìa bàn tay ấm áp ra cho tôi bắt
rồi trao phần thưởng cho tôi. Tôi bảo với chị tôi:
- Ngày mai chị
đem ra cho em cái ô màu thiên thanh và xin thầy cho em cả cái ô cán tre của
thầy đem ra cùng nhé.
- Em định làm gì
- Em sẽ treo
chúng bên bàn học để luôn nhìn thấy chúng. Cái ô cán tre của thầy thì chị
biết rồi, nó sẽ nhắc em nhớ lời bà nội dạy. Còn cái ô màu thiên thanh,
để em nhớ tới ông trung úy nhạc sĩ đồn trưởng tài hoa, yêu trẻ, yêu hòa bình,
nguyện cầu cho ông ấy được mát lành nơi Chín Suối và hoàn thành bản nhạc “Giấc
Mơ Hòa Bình” còn dang dở trên trần thế.
Sài Gòn 10 Tháng Trung Thu 2017
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
https://thachda.blogspot.com/2017/09/hai-cai-o-tay-nguyen-bang.html
https://thachda.blogspot.com/2017/09/hai-cai-o-tay-nguyen-bang.html
Thạch Đà Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau sống và viết tại Cà Mau sinh 1978 quê Tuy Hòa
HAI CÁI Ô TÂY - NGUYỄN BÀNG
Truyện ngắn Nguyễn Bàng:
Hai cái ô tây
.
BÂNG KHUÂNG: tháng mười 2017
phudoanlagi.blogspot.com/2017/10/
10 thg 1, 2017 - HAI CÁI Ô TÂY - TRUYỆN NGẮN CUẢ NGUYỄN BÀNG Chu Vương Miện: tháng chín 2017
chuvuongmien.blogspot.com/2017/09/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét