“QUÊ NGHÈO”
- NGHÈO ĐẾN XÓT XA CÕI LÒNG
*
Quê
nghèo
.
Quê tôi nghèo
lắm
Vẫn lác đác
nhà tranh
Vẫn tiếng
thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm
chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời
lam lũ
Mẹ một đời
chắt chiu
Khoai sắn
vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi
đói ngủ
Thương cánh
cò bấu bíu lời ru.
.
Quê tôi
nghèo lắm
Phiên chợ còn
èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải
chuối
Vài mớ rau
tươi
Mẹt sắn, mẹt
ngô
Í ới mời
chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm
người bán
Lẻ tẻ mấy
người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ
quê xác xơ già cỗi.
.
Quê tôi
nghèo lắm
Lũ trẻ gầy
như con cá mắm
Lũ trai mặt
mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi
đau nghèo khó
Nơm nớp âu
lo đời như chiếu bạc
Thương con
cò con vạc
Mỏi cổ chồn
chân trên đồng đất của mình.
.
Quê tôi
nghèo lắm
Nước mắt rơi
từ thời chị Dậu
Tiếng oan
khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa
quanh
Bám đeo đặc
quánh
Chiếc cổng
làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê
tông cốt thép
Ngạo nghễ
tượng đài
Ngạo nghễ
trần ai
Chiếc cổng
làng thành tai hại
Giam hãm đời
người
Tù túng giấc
mơ.
.
Quê tôi
nghèo
Nghèo cả
giấc mơ...
*.
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
LỜI BÌNH:
Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường
được ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh
Pháp Á. Vì
vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của
những bài ca mà tôi yêu thích, trong đó có bài “Quê nghèo”
của Phạm Duy mà tôi có cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính
là quê mình, cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng “có lũy tre
còm tả tơi”… Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không còn
được nghe đài Pháp Á nữa, không phải vì không còn trọ học mà vì dân chúng chỉ
được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi dần vào lãng
quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát
những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác
xã, lòng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập dìu hợp
tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". Vì
thế hai tiếng “Quê nghèo” cũng lặn mất tăm trong tâm trí
của tôi.
Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê nghèo” lại
hiện lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo” một
thời vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê nghèo” còn
như mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!
*
Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên câu mở
đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một tiếng thở dài buồn
thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ chính và 2 câu thơ
kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:
Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc
sống của người dân quê tôi:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu
thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo
nàn mà không gì có thể thay đổi được qua năm tháng. Tuy nhiên, vẫn lác
đác nhà tranh thì phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn
tiếng thở dài những chiều giáp hạt / Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát”
thì không dễ gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ dốc kiệt sức vào việc
kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo
không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải tiếp
nối:
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay
lả bay la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh
cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là
những cánh cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…
Bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến hôm nay nhắc tôi nhớ lại
bản nhạc Quê
nghèo từ năm 1948 của Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đã qua
không một ai có thể vẽ lên hình ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến vậy: lũy
tre còm tả tơi, những ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ
gầy... Rồi là một tiếng kêu thống thiết:
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy
Nhưng trong tiếng kêu thống thiết ấy vẫn còn có
niềm vui là nồi cơm độn đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu cũng thở dài nhưng
trẻ thơ vẫn được đi vào giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu thương của mẹ:
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi
Sau hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xã
hội rồi lại thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và
phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của nhà thơ,
một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội
chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với Phố
Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ
nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo,
vẫn chỉ là nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai
sắn len vào giấc ngủ của người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói
ngủ của con trẻ.
Quê tôi nghèo lắm còn được phơi bầy không giấu
giếm trong cảnh chợ làng:
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá,
con gà, miếng thịt lợn…
Chợ quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như
chợ huyện, chợ tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi
chác mua bán mà đối với dân làng còn là một nơi gần gụi thân thương chung của
mọi người đồng thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa
chung của dân tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay, bao người ao ước:
Muốn cho gần chợ mà chơi
Gần sông tắm mát, gần nơi đi về
Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ còn là
một cái chợ “èo ọt’ với vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ
rau, mẹt sắn mẹt ngô thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Kẻ bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng
buồn chán trước một phiên chợ đang tàn tạ không còn sự sống:
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi lòng khi
thấy hình hài lũ trẻ:
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Nhìn lũ trẻ Quê nghèo trong
thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi nghe vẳng tiếng hát trẻ trung trong câu ca
dao:
Gió đưa gió đẩy… về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…
Rồi lại ùa về thêm trong tôi những lời kể của nhà
văn Tô Hoài:
“cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu
chấu bán cho người chơi chim họa mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt,
rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột
rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm
và nói đến vẫn còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo
ra phơi mình, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mỏng không có nọc
độc, thịt mềm như thịt gà con luộc..." (trích Chiều chiều).
Bây giờ đâu còn dễ kiếm được con còng, con cá, con
cua đồng, đâu còn bắt được châu chấu, chuột đồng, rắn ráo, rắn nước rắn mòng,
đâu còn hái được quả sấu quả nhót nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới ra cái hình hài,
cá mắm mốc meo đáng thương kia.
Những thân hình đói khổ ấy làm sao chứa đựng được
những tâm hồn lành mạnh mà trong họ chỉ có:
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hãm như những:
con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình
Quê tôi nghèo lắm. Vậy
nguồn gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu? Hãy nghe nhà thơ cắt nghĩa:
Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Và giờ đây cộng thêm:
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng
lên thật đẹp ấy?
Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài
ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên
để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm cướp và thường được dựng bằng tre, nối
liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh,
ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm tra người
lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với những nét đẹp
giản đơn mà thơ mộng:
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre
(Bàng Bá Lân)
Giờ cổng làng xưa không còn nữa. Quê thì nghèo rớt
mồng tơi mà người ta lại xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không còn là
nơi thông báo cho người khác biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường
như chỉ để khoe mẽ:
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Và chính vì thế, người ta đâu biết:
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất
cũng đai lại ba tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo
đã nói, xót xa hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:
Nghèo cả giấc mơ
Đến giấc mơ cũng nghèo thì nói gì đến hoài bão ước
mơ lớn mà biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về những người có
hoài bão, biết ước mơ!
*
Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm
thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo mòn, nhạt thếch
và cũ rích, thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, thì bài thơ Quê
nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được những người
yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà thơ đã không
câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động thể hiện những
nỗi xót lòng đối với làng quê, với người dân quê của mình. Những tiếng thơ chân
thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói chung cho nhiều người đang còn có những
“Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo.
Mặc dù Bộ máy truyền thông Nhà nước đang tán dương
mức tăng hơn 11 lần về thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam trong 20 năm
qua, nhưng tôi không hề tin đến cuối thế kỷ này, Chủ Nghĩa Xã Hội sẽ hoàn
thiện ở Việt Nam; tôi cũng không hề trông chờ vào sự đổi thay kỳ diệu trong ảo
tưởng như câu thơ từ nửa sau thế kỷ trước:
Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều (Tố Hữu)
Tôi chỉ mong rằng, trên mọi miền đất nước, bà con
dân quê chúng ta sẽ tự cứu mình để sớm hết cảnh “Quê nghèo”, nghèo
đến xót xa cõi lòng như trong thơ Đặng Xuân Xuyến.
___________________________________
Góp ý riêng với tác giả về một câu thơ:
Tiếng oan
khiên từ thời Giáo Thứ
Tiểu thuyết “Sống mòn” đề cập đến một vấn đề nhức nhối của người trí thức trong thời đại cũ, những văn nghệ sĩ nhiều khao khát, giàu lý tưởng nhưng cuộc sống cứ mòn dần, lụi dần bởi mối lo cơm áo. Giáo Thứ trong tác phẩm “cũng mang tiếng ông giáo với bà giáo, quần áo là, sơ mi trắng, thắt ca vát, giầy tân thời, thứ Năm, Chủ Nhật diện ngất, tưởng mà mỡ lắm, thế mà kì thực bụng chứa đầy rau muống luộc”.
Chứ Giáo Thứ có oan khiên gì đâu?
Tôi nghĩ có lẽ nên là: “Tiếng oan khiên
từ thời anh Pha”
Anh Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, một nông dân nghèo khổ, sống thật thà, chân chất nhưng lại không tránh khỏi “tai bay vạ gió” từ những con người tưởng như cũng bần cùng như anh nhưng vẫn thiếu mất sự cảm thông và cái tình, cái nghĩa
như Trương Thi rồi đến bọn thống trị hách dịch bạo tàn, ra sức cướp bóc tô thuế, không ngần ngại tra tấn những người nông dân cùng khổ như tên địa chủ Nghị Lại và bọn Quan huyện, lính lệ không ngừng tìm mọi cách vơ vét người nông dân đến khánh kiệt và đưa anh Pha đến bước đường cùng.
*
https://vantuyen.net/category/tac-gia-tac-pham/
Nguyễn Bàng – “QUÊ NGHÈO”
Quê nghèo . Quê tôi nghèo lắm Vẫn lác đác nhà tranh Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát Cha (Xem tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét