GÃ KHỜ hay THẰNG NGỐC VIỆT NAM
CÒN SÓT LẠI Ở ĐẦU THẾ KỶ 21 NÀY?
*
Biết tôi hay lò dò lên mạng để
tìm đọc dăm ba thứ thay vì phải đọc báo in, nghe đài hay xem nghe truyền hình
thời sự nhưng lại là một ông già không biết chơi Phây, không biết Gúc để tìm
tòi các trang mạng hay, nhà văn Đặng Xuân Xuyến đã gửi Mail chỉ đường dẫn mời
tôi đọc CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ (chuyen-cua-ga-kho-truyen-ngan-ang-xuan_7.html), một truyện ngắn anh viết năm 2006, ra sách năm 2007 (in
chung) nhưng giờ mới post lên blog của anh và gửi một số trang và như anh nói
gửi để tôi đọc cho vui. Chính vì thế, khi nhìn vào tên truyện, tôi ngỡ mình sẽ
được đọc kiểu truyện chàng khờ với hình tượng nhân vật trung tâm là các anh
chàng ngốc nghếch với những hành động, việc làm… ngây ngô ngớ ngẩn dại khờ đã
đem lại tiếng cười sảng khoái và những trải nghiệm vô cùng lí thú để từ đó người
nghe, người đọc rút ra những bài học cho bản thân. Nhưng đọc xong CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ, tôi chẳng được vui tý
nào mà lại cảm thấy đắng lòng khi nhận ra gã Khờ này phải chăng là một THẰNG
NGỐC VIỆT NAM còn sót lại ở đầu thế kỷ 21 này.
Đúng là gã Khờ của Đặng Xuân
Xuyến không giống những chàng
ngốc, những thằng dại khờ như
trong các truyện dân gian của ta với cái ngốc cái dại không biết để đâu cho hết
khiến mọi người phải ca thán bảo nhau:
Một đêm quân
tử nằm kề
Còn hơn
thằng ngốc vỗ về quanh năm.
Con vợ khôn
lấy thằng chồng dại
Như bông hoa
lài cắm bãi cứt trâu
mà gã là một thằng ngốc đại
gia trong xã hội Việt Nam đương thời “đã từng vụt sáng chói lóa trong
mắt mọi người”.
Những chàng ngốc trong truyện
dân gian vì ngốc quá nên luôn bị lừa như có anh mười năm đi ở cho lão trọc
phú chỉ được ba nén vàng giả nhưng cầm trên tay, anh ngốc cứ tưởng là vàng
thật. Rồi chàng hí hửng muốn đi du ngoạn khắp nơi, đầu tiên có kẻ gạ chàng ta
đổi 3 lạng vàng lấy sáu nén bạc mà thực ra chỉ là sáu miếng chì, rồi có kẻ gạ
đổi 6 miếng chì lấy bó "lụa đinh kiến" quý hiếm mà thực ra chỉ là bó
giấy dó, rồi đổi bó giấy dó lấy cái “thiên địa vận” biết trước mọi việc trên
thế gian mà thực ra chỉ là cái chong chóng, rồi đổi cái chong chóng lấy viên
ngọc lưu ly chưa chắc vua đã có được mà thực ra chỉ là một con niềng niễng có
đôi cánh xanh đỏ.
Gã Khờ trong truyện của Đặng
Xuân Xuyến bị lừa tiền, lừa nhà đi đến cảnh “bây giờ, hắn tiều tụy,
thảm thương còn hơn mèo đi kiết” hiển nhiên không phải vì gã ngu đần như
chàng ngốc kia mà chỉ vì gã có tính thương người và lòng trắc ẩn.
Với tấm lòng tốt đẹp ấy, gã rất tin vào tình người nên đã cho thằng bạn nối khố
mượn tiền mà không cần giấy ghi nợ, cũng không cần có người làm chứng, vì vậy
khi cần đến đòi lại thì được thằng bạn “nhướng đôi lông mày thô đậm,
xoăn tít, nhìn hắn từ đầu xuống chân rồi hô hố cười, bảo hắn là thằng khùng,
nếu đói quá, không có chỗ xoay sở thì cầm lấy vài chục nghìn mà đắp đổi qua
ngày, việc gì phải diễn trò ngớ ngẩn như thế”. Tiền không đòi được,
hắn tìm về lấy lại ngôi nhà nho nhỏ ở ngoại ô đã giao cho thằng em kết nghĩa
trông coi. Thằng em kết nghĩa này là một thằng bé đánh giày nhem nhuốc mà gã đã
lầm tưởng là người lương thiện nên đã cưu mang đem nó về nhà nuôi ăn học. Nhưng
khi đến ngôi nhà, chạy ra đón hắn không phải là thằng em kết nghĩa mà là con
chó có tên là “Tình Nghĩa”. Rồi thằng em ấy, khi biết ý định của gã,
nó đã không ngượng mồm, nói trắng phớ ra rằng: “Vâng, nhà này mua bằng
tiền của anh nhưng em đã làm sổ đỏ đứng tên là chủ sở hữu rồi” và đuổi
hắn đi như đuổi một con chó.
Hai cái khờ dại, hai cái sai
lớn nhất về sự ngộ nhận tình người đến nỗi gã bỏ ngoài tai những nhận xét tinh
tế của vợ gã về ông bạn nối khố và thằng em kết nghĩa, không để tâm đến những
lời can ngăn của thị, dẫn đến cảnh “nhà hắn thưa dần rồi mất hẳn nụ
cười hạnh phúc của người vợ” và đưa tới cảnh “vợ hắn nằng nặc nộp đơn ly dị”.
Trong một xã hội mà mọi chuẩn
đạo đức đang bị băng hoại, dối trá lừa đảo phát triển như nấm độc khắp nơi nơi
như: lừa đảo qua mạng, lừa đảo bán hàng đa cấp, lừa đảo xin việc làm, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản …, gã Khờ đã không thèm nhớ đến lời mọi người vẫn thường
bảo nhau: Cho bạn vay tiền: "Đứng" cho vay, "quỳ"
đòi nợ, cho thằng bạn nối khố vay tiền mà không cần giấy ghi nợ
cũng không cần có người làm chứng. Trong lúc chưa bao giờ câu nói “tấc
đất tấc vàng” đúng cả nghìn lần như bây giờ khiến cháu giết bà vì sổ
đỏ, anh em ruột thịt đâm chém nhau vì nhà đất, thì gã Khờ lại giao hết giấy tờ
và nhà đất cho thằng em kết nghĩa trông coi hộ. Gã Khờ tuy không ngu đần, không
kém về trí khôn nhưng đã suy xét, ứng phó, xử sự chỉ với thứ lòng tốt đơn thuần
và cao thượng của riêng gã nên mới ra nông nỗi thảm hại hơn cả những thằng ngốc
trong truyện cổ dân gian. Thế chẳng phải là một thằng ngốc còn sót lại ở đầu
thế kỷ này thì sao! Và thế thì làm sao mà vui được khi nghe chuyện về gã? Họa
chăng có một chi tiết làm người đọc vui gượng tý chút, ấy là thấy gã tinh thông
về tử vi lý số, biết về mình: “Thôi thì cũng là do số phận. Cung nô của
hắn chẳng ra gì thì đành chấp nhận. Đã Tham Lang hãm địa lại đồng cung với
Thiên Diêu hãm địa thì đời hắn tàn vì chữ tình là phải.” mà vẫn mù
quáng đi đến chữ “tàn”. Thật đúng là “Số thầy thì để cho ruồi nó bâu”!
Kiểu truyện chàng ngốc trong
dân gian thường có hai xu hướng kết thúc, hoặc là chàng ngốc phải chết hoặc là
chàng ngốc gặp may mắn tìm được hạnh phúc, trở thành người giàu có, khôn ngoan
hơn. Gã Khờ trong truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến đã không phải chết
vì gã không phải là nhân vật xấu, không bị người đời căm ghét; gã cũng không
phải chết để khắc sâu bài học kinh nghiệm sống của con người là: Đừng ngốc
nghếch làm việc một cách máy móc thụ động, không biết suy xét vấn đề một cách
kĩ lưỡng, không hiểu gì về cuộc sống cả mà phải biết làm chủ được những suy
nghĩ và hành động của mình để tránh phải sẽ gặp sự thất bại.
Không bắt gã Khờ phải chết mà
rốt cục, Đặng Xuân Xuyến cũng cho gã được gặp may, nhưng trước khi đến với vận
may, gã còn phải ê chề nếm thêm ít nỗi nhục nhã đắng cay của thời đại mới.
Ấy là, sau khi biết bình
đã vỡ rồi, gã Khờ cũng nhận ra là phải lấy thân mà trả nợ đời cho
xong. Đầu tiên, gã vùi mình trong men rượu rồi tự nguyện làm một “Thằng
đàn ông bán thân nuôi miệng, một thằng điếm”.
Như đã nói, gã Khờ
trong truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến là một kẻ có học. Vậy gã thừa
hiểu, ở Việt Nam từ xưa đến nay người ta đã không mấy ưa loại người làm đĩ, cho
dù là đĩ cái. Thì kia, cô Kiều của Nguyễn Du trong văn chương Việt Nam tuy đã
được Kim Trọng khen ngợi là: “Như nàng lấy hiếu làm trinh - Bụi nào cho
đục được mình ấy vay?”, và cô đã sống trong niềm yêu mến của bao lớp
người Việt từ bậc thức giả đến kẻ bình dân xưa vậy mà cũng vậy, thế mà mấy lần
cô Kiều đã bị cụ Huỳnh Thúc Kháng, một chí sĩ yêu nước
gọi là "Con đĩ Kiều", "Cái giống độc
con đĩ Kiều” .
Ấy là đĩ cái vốn đã cùng với
mại dâm xuất hiện và phát triển từ thời nguyên thủy huống chi đĩ đực mới chỉ
đến thế kỷ này mới xuất hiện. Gã Khờ bất chấp mọi giá làm một thằng điếm, một
con đĩ đực vì “Hắn cần
tiền. Hắn cần tạo dựng lại cơ nghiệp. Hắn cần được tung hô, cần được trọng vọng
như ngày trước. Đời hắn không thể thiếu thứ hàng xa xỉ đó”. Làm đĩ đực, ấy
là con tàu tốc hành để gã nhanh chóng đi tới ga nhặt tiền.
Ngay lần đầu tiên làm thằng
điếm, gã đã may mắn không phải hầu hạ một máy bay bà già sồ sề, nhăn nhúm nhưng
thèm khát tình dục mà là gặp một “Khuôn mặt đẹp, da lại trắng hồng”. Mới
đầu, thấy “Ả đẹp.
Hắn cũng thích” nhưng khi vào cuộc gã mới nhận ra ả là một “con
vợ đĩ lên đĩ xuống, đĩ ngang đĩ dọc mà thằng chồng cấm dám ho he”, một “con
đàn bà đĩ thõa đang lên cơn động đực”. Thế là “Hắn không thích cuộc
chơi này nhưng hắn không còn sự lựa chọn” vì gã cần tiền như trên đã nói và
thêm nữa vì sợ cái thằng vừa dẫn mối vừa bảo kê cho ả, với “Một giọng
nói sắc gọn, rờn rợn vang lên”:
- Làm
bổn phận đi. Muốn chết à?
ở đằng sau cánh cửa.
Hầu hết các truyện dân gian về
các chàng ngốc đều kết thúc có hậu như gặp vua được vua ban thưởng một chức
quan trong triều đình và sống cuộc đời giàu có sung sướng hoặc nhờ nói mò mấy
câu văn chương học lỏm mà cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Nhưng phổ biến nhất
là các chàng ngốc đều may mắn có được cô vợ thông minh hết lòng vẽ đường chỉ
lối cho chồng làm ăn nhưng ngốc vẫn hoàn ngốc, hết lần này đến lần khác đều
thất bại khiến người vợ bị người đời mỉa mai muốn tự tử cho xong đời nhưng rồi
vì lòng thương chồng các nàng đã bỏ ngay ý định tiêu cực đó, quyết tâm tìm cách
giúp chồng trở thành người khôn ngoan hơn.
Đặng Xuân Xuyến cũng dành cho
gã Khờ của mình một kết cục có hậu tuy rất khác các truyện dân gian. Gã được
một người 12 năm trước đã chịu ơn gã. Người ấy, khi xong việc để lại cho gã một
bức thư: “lấy lại
đầy đủ giấy tờ ngôi nhà từ tay thằng em kết nghĩa” của gã bằng
cách làm cho: “Nó thua
bạc, gán nhà trả nợ theo đúng kịch bản mà em cùng nhóm bạn thân dàn dựng”.
Người ấy cũng cũng lấy lại “sợi dây
chuyền “bảo bối” mà anh rất quý, bị thằng bạn nối khố của anh chiếm đoạt” cùng “Số
tiền thằng bạn nối khố lừa đảo, em cũng đã đòi lại và chuyển vào tài khoản cá
nhân của anh”. Bằng cách: “dùng các chứng cứ phạm pháp “uy
hiếp”, bắt tên khốn kiếp phải trả lại anh số tiền đã chiếm đoạt, bọn em đã
chuyển cho nhà chức trách những bằng chứng phạm pháp của nó, bắt nó phải trả
giá cho những tội ác đã gây ra”
Một cái hậu tưởng như mơ, đẹp
quá sức tưởng tượng khiến CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ như một cổ tích hiện đại và nhân
vật Gã Khờ thấy lại lòng yêu trời, yêu đất và yêu cuộc sống: “Hắn bước
ra sân, ngước mắt nhìn bầu trời xanh ngắt. Tiếng họa mi nhà ai lảnh lót làm hắn
lặng người, rồi bất chợt hắn mỉm cười.”
Một số bạn đọc cho rằng: “kết
thúc truyện lộ bàn tay sắp đặt của tác giả quá”, nói như các nhà phê bình
văn học là tô hồng quá. Thì tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn
nên nhà văn tạo dáng cho đứa con tinh thần ấy của mình ra sao là tùy thích. Vì
vậy tôi có phần đồng ý với nhận định trên của người đọc. Nhưng đọc xong CHUYỆN
CỦA GÃ KHỜ, tôi có cảm nhận trong sự sắp đặt lộ liễu ấy, Đặng Xuân Xuyến đã rất
muốn giải trình cùng bạn đọc những suy nghĩ ẩn dấu bên trong mà tác giả không
thể nói trắng ra được. Theo tôi, thì đó là:
Đành rằng thời đại ngày nay ở
nước ta không còn vua nên gã Khờ sao còn được vua cứu giúp và ban thưởng. Đành
rằng, vợ gã Khờ đã cám cảnh kiểu thương người một cách mù quáng của chồng, đã
ly dị gã nên gã đâu còn được cô vợ thương yêu giúp chồng khôn ngoan hơn trong
cách sống của một xã hội đang loạn chuẩn đạo đức để xóa bỏ ảo tưởng về sự lãng
mạn của tình yêu và sự chân thành của tình huynh đệ, bằng hữu. Không có vua ban
thưởng, không còn vợ giúp khôn nên phải có một người 12 năm trước đã chịu ơn gã
nay ra tay cứu giúp gã. Như thế cũng hợp lý.
Nhưng hà cớ gì người đó không
phải là một người Việt đang sống cùng gã trên giải đất hình chữ S này mà lại
phải là một người Nhật gốc Việt, nói một cách khác là một người Việt đã dời xa
xứ sở Thiên đường Xã hội chủ nghĩa của mình để đến sống
ở “Đất nước Mặt trời mọc” tư bản đang giãy chết. Bao nhiêu
luật lệ để đâu, bao nhiêu người Việt đứng về lẽ phải đi đâu mà phải để người
Nhật gốc Việt đó về nước và như có phép lạ, lấy lại cho gã tiền bạc đã bị thằng
bạn nối khố bất lương quỵt nợ và nhà cửa đã bị thằng em kết nghĩa chó chết
chiếm đoạt. Đã thế người đó còn để lại trong thư cho gã những lời lãng mạn đẹp
như hoa hồng buổi sáng:
“Vâng! Nhất
định khi trở về Việt Nam em sẽ đưa vợ con đến chào anh. Lúc bấy giờ, em sẽ
thoải mái được nói lời cám ơn anh, cám ơn vị ân nhân đặc biệt của mình.
Ps: Anh!
Chị vẫn còn
yêu anh nhiều lắm. Hãy đến làm lành với chị để các cháu được sống trong vòng
tay yêu thương của cả bố, cả mẹ.”
Và vì thế tôi coi nhân vật GÃ
KHỜ trong truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến là một THẰNG NGỐC VIỆT NAM còn sót
lại ở đầu thế kỷ 21 này. Một thằng ngốc hiện đại nên mới có được sự may mắn từ
những phép màu hiện đại như khả năng kỳ tài của anh chàng người Nhật gốc Việt
kia. Tôi thấy mình cần phải đọc CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ này kỹ hơn và ngẫm nghĩ sâu
hơn
Sài Gòn, thứ sáu 09-09-2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét