MẢ BA HOANH
Dịch Vọng Cầu Giấy quê tôi là một địa danh nổi tiếng không chỉ về địa lý, văn vật mà còn về lịch sử dân tộc.
Lịch sử có ghi nhận:
Ngày 21-12-1873, theo lệnh của Thống đốc Hoàng Kế Viêm và Tham tán Tôn Thất Thuyết, Tướng Lưu Vĩnh Phúc đem quân mai phục ở Cầu Giấy, tập hợp quân sĩ ở Dịch Vọng, giết tại trận Thiếu tá hải quân F. Garnier khi y đem quân từ trong Thành ra nghênh chiến, (Địa điểm Garnier bị giết nằm gần đường La Thành bên bờ hồ Ngọc Khánh nay thuộc phường Ngọc Khánh quận Ba Đình Hà Nội). Trung úy hải quân Balny d'Avricourt điều khiển một nhóm quân binh khác chạy tiếp viện cũng bị bắn chết cùng với một quân binh ở gần đền Voi Phục.
Hồi còn học ở trường làng, thi thoảng tôi và bè bạn rủ nhau ra chơi đền Voi Phục xem lại nơi Trung úy hải quân Balny d'Avricourt tử trận cùng ngày với Francis Garnier, 21-12-1873 rồi kéo nhau lên đê La Thành xem mả Ba Hoanh. Không biết tiếng Pháp, cũng không phân biệt được bia và mộ nên khi thấy mộ rất cao và to, có gắn hình ảnh ông Tây, đứa nào cũng thắc mắc sao ngôi mộ lại dựng đứng to cao là thế? Trong đám bạn làng có anh Dân con ông đồ Gia lớn tuổi nhất đang học lớp Nhì giảng giải:
- Ông Tây này tên là Garnier, ta gọi là Ngạc Nhi rất thích cưỡi lừa cưỡi ngựa. Trong bài Văn tế Ngạc Nhi của Nguyễn Khuyến có viết:
Nhớ ông xưa: Cái mắt ông xanh, cái da ông đỏ
Cái tóc ông quăn, cái mũi ông lõ
Đít ông cưỡi lừa, miệng ông huýt chó
Ông đeo súng lục-liên, ông đi giày có mỏ
Vì vậy dân vùng ta đồn rằng, ông ấy bị bắn khi đang đứng bên một con ngựa, xác dựa đứng bên mình ngựa mãi sau mới đổ xuống. Người Pháp xây mộ đứng có lẽ là vì thế.
Cả bọn nghe anh Dân nói hết thảy đều tin và phục anh đọc nhiều biết rộng. Mãi khi lên học Trung học ở Hà Nội, tôi mới biết chút tiếng Pháp và đọc được nhiều sử liệu mới biết:
Cụ thể về cái chết của Garnier::
Ngày 21-12-1873, trong lúc đang họp bàn với Jean Dupuis và đức Giám mục Puginier, lính canh báo có quân Cờ Đen, Francis Garnier liền chạy đuổi bắt với một toán 12 binh sĩ.
Thấy có lũy tre che mắt, ông liền chia toán ra ba nhóm, mỗi nhóm bốn người, chạy theo ba hướng, ông theo nhóm giữa. Đến trước cái đập chạy dọc sông Tô Lịch, ông kiếm cách trèo, mắt luôn hướng lên trên, không thấy một cái hố bên cạnh và té xuống.
Chính ở đây một toán quân Cờ Đen ngồi rình. Ông chưa kịp đứng dậy thì bị những mũi lao đâm vào. Ông bắn tất cả đạn vào quân địch nhưng không có thì giờ lắp đạn. Ông kêu to: "A moi, les braves. Nous les batterons" (Lại với tôi, những người lính dũng cảm của tôi. Chúng ta sẽ đánh thắng chúng nó). Một người lính trong nhóm bị trúng đạn, ba người hoảng sợ chạy về thành. Hai nhóm kia ở xa lúc ban đầu không hay biết gì cả. Khi nghe tiếng súng, trung sĩ Champion chạy lại thì thấy cơ thể Francis Garnier mất đầu: quân Cờ Đen đã có thì giờ chém cắt mang đi (theo thông lệ sẽ căn cứ vào cấp bậc thủ cấp mà lĩnh thưởng). Trung úy hải quân Balny d'Avricourt điều khiển một nhóm quân binh khác chạy tiếp viện cũng bị bắn chết cùng với một quân binh.
G: nơi Francis Garnier tử trận hôm 21-12-1873 có lẽ là chỗ Hotel Dawoo bây giờ
B: nơi Trung úy hải quân Balny d'Avricourt tử trận cùng ngày với Francis Garnier, 21-12-1873, ở sát đền Voi Phục, Công Viên Thủ Lệ ngày nay
Vì thế trong các bưu thiếp, người Pháp gọi đền Voi Phục là đền Balny, tưởng niệm chỗ Balny tử trận
Đây là sự xác nhận của người Pháp:
"Chiếc xác mất đầu của Francis Garnier được trung sĩ Champion mang về thành Hà Nội cùng với xác của hai lính thuỷ cùng bị giết. (...) Sau buổi lễ cầu hồn do Đức cha Puginier thực hiện vào lúc 8 giờ sáng ngày 23-12-1873, trước sự có mặt của các cha Sohier và Colomer, các thi thể được đóng trong các hòm áo quan bằng gỗ rất dày và được chôn gần Hoàng cung, ở chân hai gốc đa lớn". (André Masson, Hà Nội giai đoạn 1873-1888, Bản dịch của Lưu Đình Tuân, NXB Hải Phòng, 2003, tr. 58).
Tấm bia đá mà nhiều người dân Hà Nội cứ ngỡ là mộ Francis Garnier, thực ra là tấm bia kỷ niệm do người Pháp dựng. Khi mới dựng, bia rất cao và to, có gắn hình ảnh Francis Garnier, có hàng rào sắt vây quanh, nhưng về sau, phía trên bia bị chặt bớt đi, chỉ còn thấp lè tè.
"Chỗ đó, sau này Tây thực dân dựng bia kỷ niệm Garnier, mà nhân dân quanh vùng vẫn quen gọi là mả Ba Hoanh ". (Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Văn Lê, Hà Nội, con đường, dòng sông và lịch sử, NXB Giao thông vận tải, 1984, tr. 76).
Theo thoả thuận được ký kết giữa đại diện Pháp và triều đình Huế , mấy cái xác chỉ được chôn tạm gần Hoàng cung, bao giờ tìm được đất khác thì phải di dời đi.
Ngày 31-8-1875, triều đình nhà Nguyễn ký hoả ước nhường đất cho Pháp. Khu nhượng địa nằm sát bờ đê sông Hồng, trải dài từ vị trí Bảo tàng Lịch sử hiện nay đến Bệnh viện hữu nghị Việt Xô, xưa kia gọi là khu Đồn Thuỷ (đồn binh của lực lượng thủy quân).
Có đất, Pháp cho xây nghĩa địa, và mộ Garnier được cải táng.
"7 giờ 30 sáng ngày 3-11-1875, bác sĩ Jardon cho khai quật tử thi Garnier để khám nghiệm, viết báo cáo pháp y. Công việc kéo dài đến 4 giờ chiều mới xong. Đám tang được cử hành, đưa thi hài về một nhà thờ nhỏ của Hà Nội. 7 giờ sáng hôm sau, Đức cha Puginier làm lễ cầu hồn. Sau đó, đám tang được đưa về nghĩa địa mới trong khu nhượng địa." (sách đã dẫn, tr. 59).
Tuy nhiên, Francis Garnier vẫn chưa thể mồ yên mả đẹp.
Số là, gia đình Garnier yêu cầu được chôn Garnier trên "đất Pháp", chứ không thể trên đất xứ bảo hộ Bắc Kỳ.
Thế là ngày 16-12-1875, tàu Pháp chở hài cốt Garnier về cập cảng Sài Gòn. Garnier được đem về chôn tại nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi. Chôn bên cạnh Doudart de Lagrée.
Tấm ảnh ngôi mộ do đại uý Charles Peyrin chụp năm 1928.
Tấm ảnh chụp có cả dòng chữ đề trên tấm bia dưới cây thánh giá, nên rất đáng tin cậy.
"Nơi đây yên nghỉ Doudart de Lagrée và Francis Garnier...". Có nghĩa là, mộ Garnier nằm bên cạnh mộ de Lagrée.
Lý do của sự gần gũi này được cắt nghĩa như sau
Trước khi được phái ra Hà Nội năm 1873, Francis Garnier sống tại Sài Gòn và từng là phụ tá đắc lực của Doudart de Lagrée trong đoàn thám hiểm ngược dòng sông Mê-kông từ ngày 5-6-1866 đến 29-6-1868. De Lagrée hơn Garnier 16 tuổi. Hai người tin cậy lẫn nhau. Đặc biệt, Garnier rất mến phục vị trưởng đoàn. Sang đến đất Trung Hoa thì chẳng may, de Lagrée bị bệnh gan rồi mất tại Vân Nam, ngày 12-3-1868. (De Pouvourville chép là ngày 26-3-1868) (sđd, tr. 120).
Garnier quyết định mang thi hài của de Lagrée đi tiếp đến Thượng Hải, lấy tàu trở về chôn ông trên "đất Pháp", tại Sài Gòn. (Francis Garnier, Voyage d'exploration en Indochine, Jean-Pierre Gomane giới thiệu và chú giải, NXB La Découverte, 1985, tr. 224-226).
Tình cảm sâu đậm của Garnier đối với de Lagrée được mọi người trân trọng. Năm 1875, khi hài cốt Garnier được chuyển từ Hà Nội vào Sài Gòn, người ta cho chôn Garnier cạnh de Lagrée để "hai thầy trò" có dịp gặp lại nhau hàn huyên.
Tại Sài Gòn, người ta còn kính cẩn dựng một bức tượng Francis Garnier và trang trọng đặt nó trên Công viên trước Nhà Hát Lơn Sài gòn. Công viên mang tên lúc đó mang tên Francis Garnier (công viên này sau trở thành Quảng Trường Lam Sơn)
Hơn một trăm năm sau, tháng 7-1976, Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Mấy năm sau, nghĩa địa Tây trong nội đô bị giải toả. Nước Pháp xin cho Bá Đa Lộc, Doudart de Lagrée, Francis Garnier... "hồi hương ". Hài cốt các ông được đáp máy bay sang Singapore, rồi được chuyển lên tàu Jeanne d'Arc, đưa về Pháp. Tàu cập bến cảng Brest ngày 26-4-1983.
De Lagrée được yên nghỉ tại quê nhà vùng Dauphiné, còn Francis Garnier thì được an táng tại đài kỷ niệm dựng tại ngã tư Saint Michel - Observatoire, quận 5, Paris. (J.P. Gomane, sđd, tr. 17).
Nhớ lại và sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét