NHÀ THƠ VÀ NGHIỆP THƠ
QUA MẤY BÀI THƠ THIỀN
CỦA CHU VƯƠNG MIỆN
Từ ngày 03
tháng 9 năm 2018 đến nay, mới vừa đầy 2 tháng, nhà thơ Chu Vương Miện đã liên
tiếp trình làng 23 chùm Thơ Thiền trên nhiều chiếu thơ mạng ở trong nước và ở
ngoài nước. Mỗi chùm thơ có từ 2 đến 5 bài, vị chi đã có cả non 100 bài Thơ Thiền
Chu Vương Miện đến với bạn đọc. Chữ Thiền, Thiền học vốn từ chữ Thiền tông mà
ra, thường được dịch là suy tưởng, suy ngẫm. Xem vậy thật đáng nể sự suy tưởng,
suy ngẫm một nhà thơ không phải là thiền
sư.
Thơ Thiền
không phải bây giờ mới có. Nó xuất phát từ Trung Hoa và phát triển mạnh từ thời
nhà Đường. Ở Việt Nam, Thơ Thiền phát triển vào thời Lý Trần với các tác giả -
các thiền sư của các thiền phái như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường,
Trúc Lâm Yên Tử mà đỉnh cao có thể kể là Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Từ đời Lê đến
Nguyễn, hơn năm thế kỷ, một số ít tác phẩm của các danh nhân Việt Nam như Nguyễn
Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ…cũng được coi là thơ thiền.
Thơ Thiền Việt
Nam hiện đại tiếp tục phát triển trên cơ sở hào quang của Thơ Thiền trung đại
và môi trường văn hóa hiện đại . Ngay trong Thơ Mới cũng có một số tứ thơ phảng
phất hương vị Thiền.
Đến những năm 60 ở miền Nam, thơ Thiền Việt
Nam đã dần dần tiếp cận sinh khí phương Tây và hiện đại hóa thể hiện trong những
ca từ nhạc Trịnh Công Sơn, thơ Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Phạm Công Thiện…
Trên dòng chảy
lịch sử ấy của Thơ thiền Việt Nam, bạn đọc thấy cả trăm bài Thơ Thiền của Chu
Vương Miện ở đầu thế kỷ 21 này là điều dễ hiểu.
Không đủ sức
và đủ tầm để viết về cảm nhận cả non 100 bài Thơ Thiền của Chu Vương Miện, bài
viết nhỏ này chỉ xin nêu mấy cảm nhận cá nhân về NHÀ THƠ VÀ NGHIỆP THƠ qua mấy
bài Thơ Thiền trong khối thơ phong phú ấy.
Vậy, nhà thơ
trong thơ thiền Chu Vương Miện là những con người như thế nào?
Trước hết là
chính tác giả, một con người cũng như mấy tỷ người khác trên cõi trần này đều
đang sống trong bể khổ trầm luân:
ta
sinh trong bể khổ
phía
nào cũng trầm luân
nay
chiếc thuyền bào ảnh
mốt
giọt lệ phù vân
từng
bước trong cố kiếp
từ
hạt cát hoá thân
Sự suy tưởng này không có gì mới mà chỉ
là diễn luận lời Đức Phật nói với ngài A Nan: “Ta thấy vạn vật trong trời đất đều có nhân duyên của kiếp trước”.
Chu Vương Miện chỉ dẫn thêm về sự trầm luân của chính đời mình:
chập
chờn bao nhiêu chặng
chặng
nào của chúng sinh
ta
đi bao nhiêu đoạn
vô
tận và vô cùng
Để rồi nhận ra một quy luật tự nhiên:
mặt
trời soi trước mặt
trăng
sao dõi sau lưng
Không giải thích gì nhưng phải chăng
nhà thơ đã ngộ ra người sống trên đời, cũng như mọi việc trên thế gian này đều
thuận theo quy luật nhân quả, đều có căn nguyên của nó. Bởi vậy, hãy học cách
thuận theo tự nhiên, buông bỏ chấp nhất, vướng bận
Như vậy, nhà
thơ sống hoàn toàn như mọi người khác và cũng làm bất cứ việc gì như mọi người
khác. Nhưng trong bể khổ trầm luân chung của kiếp người, con người không phải
là một thể đồng nhất mà có những nhân duyên khác nhau bởi vậy có những số phận
khác nhau. Vì thế, con người của nhà thơ sẽ có những nét khác biệt với những
con người ở các nhà khác.
Bài thơ NGÀY
24 GIỜ đã vẽ nên khá chân thực chân dung một con người của thơ ca chữ nghĩa:
ngủ rất
ít
ở
không làm thơ
làm
đã đời
rồi
vo tròn bài thơ quăng thùng rác
Tưởng đã
quăng thơ vào thùng rác thì thôi, ai hay:
nằm
xuống giường lim dim đôi mắt
nghĩ
chuyện xưa chuyện nay
vẫn
chưa ngủ đuợc
lại
ngồi dậy mần thơ
hết
bài này qua bài khác
Rồi kết cục ngộ
ra “chuyện xưa chuyện nay” là những chuyện gì:
đọc
đi rôì đọc lại
toàn
chuyện ruôì bu
Bài thơ TRÁI
TIM là một minh chứng cụ thể về chuyện ruồi bu đó. Nguyên uỷ câu chuyện là thế
này:
1
con gà chết
1
con gà nuốt dây thun
xe
quét rác đi qua phố
hốt
luôn gã thất tình
con
quạ đậu trên cành
con
gái ngồi trên ghế
chiều
thứ 7 lặng thinh
con
quạ kêu thảm lạ
1 con gà chết
vì nuốt phải dây thun chẳng làm động lòng ai. Xe rác vẫn đi qua phố. Cô gái chiều
thứ 7 nghỉ ngơi ngồi trên ghế lặng thinh. Chỉ mỗi một gã thất tình đang sầu loạn
tâm can cảm thấy mình như bị hốt lên xe rác. Và một con quạ kêu thảm lạ.
Quạ kêu xác
chết là một lẽ thường của tạo hoá. Vì thức ăn của quạ là xác động vật. Khi thấy
thức ăn chúng thường kêu để báo cho cả đàn biết. Nay có con gà chết vì nuốt phải
dây thun nên quạ kêu là lẽ tự nhiên nhưng người ta thường liền liên tưởng đến những điểm gở mà quạ mang
lại nên nghe tiếng kêu của nó thành thảm lạ.
Nếu chỉ có thế
thì câu chuyện cũng đã hàm ý: Người đời
chỉ quan tâm đến những gì có ảnh hưởng đến họ và đặc biệt là mang lại lợi ích
cho họ. Nhưng không, chuyện còn có một nhân vật nữa:
có
1 gã làm thơ
thường
viết về con quạ
Nếu bài thơ
chỉ đến câu này thì đúng là gã làm thơ viết về chuyện ruồi bu thật. Nhưng
không, trong chuyện con gà chết vì nuốt phải dây thun không ai thèm động lòng,
không ai thèm để ý, thì riêng gã làm thơ đã động tâm và đã viết về con quạ
vì gã nhận ra:
Con
quạ đen cả đầu
đâu
thua gì thân gã
buổi
chiều tan nhè nhẹ
trái
tim không tiếng gõ
Trong cõi đời
đầy vô cảm, nhiều chuyện không ai thèm bận lòng, coi là chuyện ruồi bu thì nhà
thơ tự làm con ruồi bu vào chuyện đó. Làm ruồi cũng có sao miễn là có được những
tiếng thơ khắc khoải trước những mảnh đời khổ lụy mà trái tim người đời không
có tiếng gõ, chỉ có những người có trái tim đồng cảm mới có những tiếng gõ thấu
cảm mà thôi.
Nhà thơ Lê Đạt
đã quá cố sau bao nhiêu năm trầm luân bởi ngòi bút đã gọi nhà thơ là một tên phu chữ bị trời đày khổ sai
vào công trường lao động chữ. Chu Vương Miện cũng diễn tả cái sự trời đày ấy của
mình:
ngồi
không mang giấy bút mần thơ
luẩn
quẩn loanh quanh chỉ hết giờ
câu
đầu câu giữa và câu cuối
Nhưng Chu
Vương Miện không không dùng lại hình ảnh “phu chữ” của Lê Đạt để nói về việc mần
thơ luẩn quẩn loanh quanh ấy mà dùng một hình ảnh ví von khác:
giống y con nhái nhẩy xuống hồ
(MẦN THƠ)
Làm thân con
nhái sao không chịu, hoặc là yên lặng bơi rong chơi trong hồ hoặc là nằm lặng
chơi dưới một tàu lá xanh mát mà sao đang trên bờ lại nhảy xuống hồ chỉ để làm kêu lên một tiếng tõm? Một tiếng
kêu nhỏ bé thôi nhưng cú nhảy đâu phải là không đau rát. Con nhái nhẩy xuống hồ
gợi ta nhớ tới ngọn Cỏ May cũng muốn được nghe giảng về Phật khiến thiền sư phải
nói: “Này Cỏ May, điều tối thượng ông hãy
yên lặng tự cảm nhận. Ta mà giảng thì chư Phật sẽ kêu: Đau!...”
Chu Vương Miện
tự ví mình giống như con nhái nhảy xuống hồ nghĩa là muốn được làm thơ, được sống
với thơ, được cùng thơ thỏa khát vọng phiêu lưu cùng chữ và nghĩa, thế là đã đủ
mãn nguyện, đủ sung sướng được sinh ra đời làm một người sáng tạo.
Cái khác biệt
giữa nhà thơ với người đời là ở đấy.
Ở một bài Thơ
Thiền khác, bài SẦU, Chu Vương Miện nói rõ hơn sự khác biệt này:
cảnh nào
cũng chỉ bình thường
chẳng
qua tâm cảnh mà điên cái đầu
nhìn
hoài cảnh có chi đâu?
chẳng
qua người nặng mối sầu đó thôi
Nhà thơ khác
biệt người đời thường ở chỗ mang trong mình một tâm cảnh. Và vì cái tâm cảnh ấy nên nhà thơ vướng vào nghiệp thơ. Mà nghiệp
thì theo ta như bóng với hình từ đời này sang kiếp nọ, đến khi hết nợ nần với
nhau mới thôi.
Để làm rõ hơn
suy tưởng đó, Chu Vương Miện ôn lại mấy nghiệp
thơ của mấy nhà thơ lớn tiền bối bằng bài cả thơ NGHIỆP THƠ.
Người thì cả
đời nghèo nàn:
cụ
Tú Xương làm thơ được
cả
đời sống trong nghèo nàn
vợ
và nhiều con
sầu
đời rồi thác
Người thì được
coi như thi bá trời Nam nhưng Văn chương
hạ giới rẻ như bèo nên phải gánh lên bán chợ giời mà mấy mươi năm cuộc đời vẫn
túng thiếu:
cụ
Tản Đà làm thơ hay hơn
thi
bá cõi trời nam
tài
ngang với ăn
làm
thơ bán cho trời
không
bán cho người
mấy
mươi năm toàn túng thiếu
Người thì
không biết nên gọi là tiên hay là điên đây:
cụ
Bùi Giáng xêm xêm hai người trên
vừa
dạy học vừa điên
thơ
đọc ngang phè không ai hiểu cả
guốc
dép xoong chảo đeo đầy vai
vừa
lang thang vừa thở dài
qua
trọn thế kỷ 20
Nhà thơ Việt
Nam là thế và nghiệp thơ của họ như thế. Nhưng xem ra đức Thích Ca Mâu Ni và
các bậc hiền triết có học vấn, có hiểu biết sâu rộng, được người đời tôn sùng như
Thánh nhân cũng đâu có hơn gì:
thầyThích
Ca Mâu Ni
không
cũng như có
có
cũng như không
thầy
Lão Tử
hoàn
toàn số không
thầy
Trang Tử
lúc
tưởng mình lá điệp
lúc
tưởng mình là hoa
lúc
tưởng mình là triết gia
thầy
Liệt Tử nằm thẳng cẳng
không
cục cựa thở hắt thở ra
thầy
Dương Tử đi cù bất cù bơ
không
cửa chẳng nhà
(LÀ TA)
Nên thật đáng thương cho một lứa đôi
khi cả hai đang ở hai phương trời Phật và cả hai đều cùng làm thơ:
chim
bay trên trời còn chỗ đến
thuyền
lênh đênh lại chẳng bến bờ
hai
đứa vẫn hai phương trời Phật
nhảm
vô cùng vì hai đứa mần thơ
(BAY)
Nhưng không
phải cứ ai mần thơ đều là nhà thơ. Bên cạnh các nhà thơ chính danh như Tú
Xương, Tản Đà hay Bùi Giáng đã kể trên còn có một loại nhà thơ nữa. Trong bài SẦU, sau khi suy ngẫm về tiền, có tiền và thiếu tiền
không tiền:
thiếu
cơm thiếu thuốc khật khờ
thiếu
tiền thiếu bạc nằm trơ mé chòi
có tiền mới mạnh đuờng tu
không
tiền chỉ có bú dù viếng thăm
tiền
đông trông giống trăng tròn
tiền
vơi toàn những mẩu trăng lưỡi liềm
tình
đời bạc trắng than đen
mắt
xanh trắng dã ngươì quen lạ rồi?
Chu Vương Miện đã cảnh báo:
hết
tiền mạnh nấy đi thôi
có
tiền đoàn tụ cứ ngôì mần thơ
Bọn người này là những kẻ có tiền nên
không phải lo toan cuộc sống. Có tiền lại muốn có danh nhà này nhà nọ nên chúng
ngồi mần thơ để được gọi là nhà thơ. Quả
thế, chưa bao giờ ở cường quốc thơ Việt Nam lại nhiều thơ, nhiều nhà thơ như
ngày nay. Câu lạc bộ Thơ Việt Nam nở rộ
khắp mọi miền đất nước, người người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Thơ xóm thơ làng,
thơ phố thơ phường, thơ quận thơ tỉnh và thành phố…Rồi mỗi năm, cả ngàn tập thơ
ra đời, được in tràn khắp mặt báo chính thống bởi người mần thơ đã có tiền quẳng
cho mọi cửa.
Qua mấy bài
Thơ Thiền về nhà thơ và nghiệp thơ của Chu Vương Miện cho ta thấy những suy ngẫm
sâu sắc của tác giả về con người và đời sống tinh thần cùng vật chất của các
nhà thơ chính danh. Dù trong hoàn cảnh, trong nghiệp sống nào, họ vẫn mang trong mình tư tưởng “hòa quang đồng
trần”, “cư trần lạc đạo”. Thơ của họ giúp cho con người thức tỉnh trước sự vô
thường để nhập thế, giúp đời mặc dù thế tục toàn là chuyện ruồi bu.
Lời thơ trong
mấy bài Thơ thiền kể trên của Chu Vương Miện đều rất mộc mạc nhưng không nghiêm
khắc khô khan như kinh tụng mà ngôn ngữ thoải mái, không thành ngữ, không điển
tích, không thiền ngữ và cũng không Phật tích nên đã đem đến cho người đọc cảm
giác thú vị và nhẹ nhàng . Ta có cảm giác Chu Vương Miện chỉ mượn câu văn ngắn
có vần có điệu dễ nhớ dễ nghe để phác hoạ hình ảnh con người và thân phận nhà
thơ và trình bày những nỗi truân chiên của cái nghiệp thơ khiến cho người đọc
thơ cảm thông và trân quý những nhà thơ chính danh.
Nhưng có lẽ
vì không chú trọng nhiều đến lời thơ nên các bài thơ thiền nói chung và mấy bài
kể trên nói riêng của Chu Vương Miện không có nhiều câu thơ bay bổng sống động
mà gợi cảm như nhiều nhà thơ thiền hiện đại đã quan tâm, chẳng hạn như Phạm
Thiên Thư trong ĐƯA EM TÌM ĐỘNG HOA VÀNG đã trở thành âm nhạc trong tay Phạm
Duy vang danh một thuở:
Ta
về rũ áo mây trôi
Gối
trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng
xưa có gã từ quan
Lên
non tìm động hoa vàng ngủ say
Trong bài LÀ TA, Chu Vương Miện có viết:
ta
soi bóng ta trong kiếng
ồ
đã qua một sát na
Sát na là đơn vị ngắn nhất của thời
gian hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Chỉ
mới soi mình trong gương đã qua một sát na.
Vậy thì nhà
thơ Chu Vương Miện hãy đừng để phí một sát na nào, hãy viết thơ và mần tiếp thơ
thiền đi.
Bạn đọc mong
chờ những chùm thơ thiền tiếp sau của Chu Vương Miện sẽ có nhiều lời hay ý đẹp
với nhiều câu thơ phóng khoáng bay bổng hơn.
Sài Gòn 03/
9/ 2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét